Tịnh Độ Đại Kinh
Giải Diễn Nghĩa
淨土大經解演義
Phần 58
Chủ giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Huệ Trang và
Đức Phong
Tập
115
Chư vị pháp sư, chư
vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin
xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải,
trang một trăm ba mươi lăm, ḍng thứ năm
từ dưới đếm lên, xem từ câu “hóa hiện kỳ thân”.
“Hóa
hiện kỳ thân, do như điện quang. Duy Thức Luận thập vân: Thần
lực nan tư, cố năng hóa hiện. Chư
đại sĩ vị độ chúng sanh, hóa tác chủng
chủng thân h́nh, hành động chi tốc, tự thiểm
điện quang. Bồ Tát năng ư nhất niệm chi
khoảnh, phổ chí thập phương quốc
độ, thượng cúng hạ độ, b́nh
đẳng phổ chiếu, diệc vô ưu, liệt, thân,
sơ, vật, ngă, bỉ, thử chi phân” (hóa hiện thân ḿnh giống như tia
chớp. Duy Thức Luận quyển mười nói:
“Thần lực khó nghĩ bàn, nên có thể hóa hiện. Các
đại sĩ v́ độ chúng sanh, hóa ra đủ
mọi thứ thân h́nh, hành động nhanh lẹ giống
như tia chớp. Bồ Tát có thể trong một niệm,
đến khắp mười phương quốc
độ, trên cúng, dưới độ. B́nh đẳng
chiếu khắp, cũng chẳng phân chia hơn, kém, thân,
sơ, vật, người, kia, đây”), đến đây
là một đoạn. Hai câu kinh văn này thể hiện
chuyện “vô trụ sanh tâm”
như kinh Bát Nhă đă nói. Lăo cư sĩ Niệm Tổ
đă trích dẫn hai câu trong quyển thứ mười
của Thành Duy Thức Luận: “Thần
lực nan tư, cố năng hóa hiện” (thần
lực khó nghĩ bàn, nên có thể hóa hiện),“thần lực” là thần
thông lực. Pháp Thân Bồ Tát đă chứng đắc Tam
Minh, Lục Thông, hoàn toàn khôi phục năng
lực của sáu căn, mắt có thể thấy khắp
pháp giới hư không giới, có thể thấy thấu
triệt nguồn đáy các pháp, tức là thấy cội
nguồn của hết thảy các pháp. Từ Pháp
Tướng, các Ngài có thể thấy Pháp Tánh. Trong
phần trước đă nói “thông
chư pháp tánh”, Ngài chẳng có mảy may chướng
ngại nào! Nói theo danh từ khoa học hiện
đại, từ thế giới vĩ mô, Ngài có thể
thấy khắp pháp giới hư không giới, các nhà khoa
học chẳng làm được, c̣n Pháp Thân Bồ Tát
thấy toàn bộ, chẳng dùng máy móc. Đối với
thế giới vi mô, hiện thời, Lượng Tử
Lực Học đă thấy bản chất của vật
chất. Bản chất của tất cả hết
thảy vật chất là huyễn tướng do ư niệm
tích lũy liên tục. Các vị Phật, Bồ Tát, vị
nào cũng thấy rơ ràng, cũng chẳng dùng tới máy móc.
Lại c̣n có thể thấy ư niệm phát sanh như thế
nào. Trong hiện thời, các nhà Lượng Tử Lực
Học đối với những câu hỏi như “ư
niệm do đâu mà có? Phát sanh như thế nào? V́ sao nó có
năng lượng to tát dường ấy?” vẫn
chưa thể nói rơ ràng. Trong kinh giáo Đại Thừa,
đức Phật đă giảng những điều này
rất rơ ràng, quư vị thấy tầm nh́n sắc sảo
hơn rất nhiều.
Chư vị phải biết
Phật, Bồ Tát v́ chúng ta thị hiện, những
thứ giống như thế đều là bản năng
(năng lực sẵn có) của chính chúng ta, chúng ta vốn
có. Do vậy, trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đă
đôi ba lượt bảo: “Hết
thảy chúng sanh vốn là Phật”, “hết thảy chúng sanh vốn đă thành Phật”.
Trong kinh, đức Phật luôn nói những lời này, thật
vậy, chẳng giả! V́ sao biến thành nông nỗi này?
Trong kinh Hoa Nghiêm có một câu [giải thích]: “Chỉ v́ vọng tưởng và chấp
trước mà không thể chứng đắc”,
phiền phức của chúng ta ở ngay chỗ này. Nếu
chúng ta có thể buông vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước xuống, trừ bỏ chúng, trí
huệ và đức tướng của chúng ta sẽ hoàn
toàn giống như Phật. “Thần
lực” chính là năng lực, tức là năng lực
của sáu căn, mắt có thể thấy, tai có thể
nghe, mũi có thể ngửi, lưỡi có thể nếm,
thân có thể đụng chạm, cảnh giới [tiếp
xúc bởi sáu căn] đều là khắp pháp giới
hư không giới. Năng lượng to lớn ngần
ấy, chẳng thể nghĩ bàn! Các nhà khoa học hiện
thời cho biết: Niệm lực của con người,
tức là tâm thái, có năng lượng vô cùng to lớn,
chẳng thể nghĩ bàn. Con người dẫu mắc
bệnh rất nghiêm trọng, vẫn có thể dùng niệm
lực để khôi phục b́nh thường, có năng
lượng to tát dường ấy! Các nhà khoa học
cũng nói: Năng lượng của niệm lực,
nhất là ư thức tập trung, ư thức tập thể,
chẳng phải là một người, mà là cả một
nhóm người, có tới mấy chục người,
hoặc mấy trăm người, mọi người
cùng nhau tập trung ư niệm, các nhà khoa học nói sức
mạnh ấy vô cùng to lớn, có thể biến
đổi hoàn cảnh.
Tiến sĩ Giang Bổn
Thắng (Emoto Masuru) của Nhật Bản đă làm thí
nghiệm nơi hồ Tỳ Bà (Biwako) ở Nhật
Bản. Ai đến Nhật Bản chơi, tôi tin
tưởng người ấy nhất định sẽ
đến thăm cái hồ lớn này. Hồ này rất
lớn, giống như biển cả, trong hồ có một
eo biển, eo biển ấy biến thành chỗ
nước tù đọng, h́nh như nước chẳng
lưu thông đă hơn hai mươi năm. Nước
ấy rất bẩn thỉu, tức là nước trong cái
eo biển nhỏ ấy rất dơ bẩn, mùi rất khó
ngửi. Tiến sĩ Giang Bổn Thắng dẫn hơn
một trăm người, thỉnh một vị lăo pháp
sư. Ông ta bảo tôi, [vị pháp sư ấy] là một
vị lăo ḥa thượng hơn chín mươi tuổi,
suất lănh hơn một trăm người, đại
khái có chừng một trăm năm mươi hay sáu
mươi người cầu nguyện tại eo biển
ấy. Cầu nguyện rất đơn giản, yêu
cầu mọi người trong thời gian cầu
nguyện, họ cầu nguyện suốt một giờ,
trong một giờ ấy, hăy buông xuống tất cả
hết thảy ư niệm, tức là chuyện ǵ cũng
đều chớ nên nghĩ tới, dùng tâm thanh tịnh,
chỉ nghĩ đến một chuyện, nghĩ
nước trong hồ ấy đă sạch, miệng
cũng nói “nước hồ đă sạch rồi”.
Mọi người cùng nhau nói, cùng nghĩ như vậy.
Quư vị thấy [cầu nguyện] đơn giản
như thế này: “Nước trong hồ sạch sẽ,
nước trong hồ sạch sẽ. Ta yêu mến
ngươi, nước trong hồ đă sạch làu rồi”,
nói một câu như vậy. Đối trước
nước trong hồ nói một suốt một giờ
như thế rồi rời đi. Ba ngày sau, nước
hồ thật sự trong sạch, chẳng c̣n ngửi
thấy mùi nữa! Tin tức này được giới
thông tin và TV Nhật Bản loan tin, rất chẳng thể
nghĩ bàn, thật sự sạch sẽ! Giữ
được bao lâu? Giữ được nửa
năm. Ông Giảng Bổn Thắng kể cho tôi nghe câu
chuyện ấy, tôi bảo ông ta: “Tốt nhất là quư
vị cứ hai tháng cầu đảo một lần,
nước trong hồ sẽ vĩnh viễn trong sạch.
Quư vị thấy kỳ đảo một lần bèn
giữ được nửa năm. Nếu hai tháng
cầu nguyện một lần, chẳng phải là nước
hồ sạch suốt năm hay sao?” Cuộc thí nghiệm
ấy đă ban cho chúng ta một khải thị rất
lớn, mà cũng là dùng sự thật để chứng
tỏ những lư luận của các nhà Lượng Tử
Lực Học, tức là “sức mạnh của ư thức
tập thể rất lớn, có thể biến đổi
hoàn cảnh!”
Hiện thời, địa
cầu xuất hiện bất ổn, quư vị thấy
khắp nơi núi lửa bùng nổ, lụt lội, hạn
hán, nhiệt độ địa cầu tăng lên, có cách
nào để thay đổi hay không? Có chứ! Có thể
khiến cho địa cầu khôi phục b́nh
thường, các nhà Lượng Tử Lực Học
bảo chúng ta điều này. Họ có số liệu vô cùng
khoa học, họ dùng căn bậc hai của một
phần trăm dân số trên địa cầu để
tính toán. Căn bậc hai của một phần trăm toàn
bộ dân cư trên thế giới dân cư nói chung vẫn
chưa tới tám ngàn người, căn bậc hai của
một phần trăm mà! Nói cách khác, nếu trên thế
giới có tám ngàn người, thật sự đoạn
ác, tu thiện, buông tham, sân, si, mạn xuống, học
tập luân lư, đạo đức, khởi tâm
động niệm tương ứng với hết thảy
thiện pháp, những pháp ác thảy đều buông
xuống, những tai nạn trên địa cầu
đều chẳng c̣n nữa! Lẽ ra t́m được
tám ngàn người như vậy chẳng khó. Không nhất
định phải ở cùng một chỗ, hoặc
tập trung một chỗ, chẳng cần thiết! Quư
vị ở ngay chỗ cư trụ của ḿnh mà thực
hiện là được rồi. Thông qua hệ thống
truyền thông, Internet, vệ tinh, t́m tám ngàn người
như vậy, lẽ ra t́m người ghi danh t́nh nguyện
chẳng khó khăn ǵ! Coi xem ai sẽ là người
xướng suất, t́nh nguyện ghi danh, tên họ,
giới tính, tuổi tác, nghề nghiệp, yêu cầu
người ấy thật sự “quay đầu là bờ”. Nhà Phật nói buông tham,
sân, si, mạn, nghi xuống. Lại c̣n có truyền thống
Trung Quốc làm duyên, buông oán, hận, năo, nộ, phiền năo
xuống, khiến cho tâm địa trở về thuần
tịnh, thuần thiện. Tốt nhất là có thể
thực hiện Đệ Tử Quy, Cảm Ứng Thiên,
Thập Thiện Nghiệp Đạo một trăm
phần trăm, trên cả thế giới có tám ngàn
người như vậy, thế giới bèn
được cứu văn.
Do vậy, ở đây chúng tôi
hiệu triệu các đồng học Tịnh Tông chúng ta,
chúng ta tới thế gian này để làm ǵ? Đến hành
Bồ Tát đạo, tới cứu khổ, cứu
nạn. Quư vị thấy trên thế giới tai nạn
nhiều ngần ấy, chúng ta có chịu phát tâm hay không? Các
nhà Lượng Tử Lực Học đă nêu ra đề
nghị như thế, chúng tôi cảm thấy rất có
thể thực hiện được! Các đồng
học Tịnh Tông đă quy y Tam Bảo, hăy nên buông
xuống cái Tôi, buông tự tư tự lợi xuống.
Chúng tôi giảng kinh đă nhiều năm ngần ấy,
khuyên mọi người buông xuống mười sáu
chữ, “tiếng tăm,
lợi dưỡng, tự tư tự lợi, ngũ
dục, lục trần, tham, sân, si, mạn”. Tôi nói
mười sáu chữ ấy. Thật sự buông xuống,
chúng ta nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh
Độ, cũng đem công đức ấy hồi
hướng cho quả địa cầu này, hy vọng hóa giải
tất cả tai nạn trên địa cầu. Lần này,
tôi từ Hương Cảng đến đây,
trước khi tôi đến, tại Hương Cảng
cũng triệu tập hơn một trăm đồng
học Tịnh Tông cùng nhau phát nguyện tu Lục Ḥa Kính,
cũng là do ư nghĩa này. Trên quả địa cầu này
có tám ngàn người có thể thật sự tu Lục Ḥa
Kính, thật sự buông tự tư tự lợi,
tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, lục
trần, tham, sân, si, mạn xuống,
sẽ có thể hóa giải tai nạn, địa cầu
được cứu! Đó chính là nói “thật sự có
hơn tám ngàn vị Bồ Tát giáng hạ!” Bồ Tát
đại từ đại bi cứu khổ cứu
nạn.
Hiện thời, trên địa
cầu có khoảng sáu mươi lăm ức
người, tám ngàn người như vậy có thể
[chuyển biến tai nạn trên địa cầu] hay
không? Người đông ngần ấy đều đang
tạo nghiệp, đều đang làm ác, [chỉ vỏn
vẹn] tám ngàn người tu thiện có hữu hiệu hay
không? Có đồng học hỏi tôi, tôi trả lời: “Có thể hữu hiệu”. V́ sao tôi nói “có
thể hữu hiệu?” Chúng tôi nhớ cổ nhân Trung
Quốc có một câu thành ngữ, có thể giải thích
vấn đề, tháo gỡ nghi hoặc này. Câu thành ngữ
ấy là “tà chẳng
thắng chánh”. Hơn sáu mươi ức người
có tư tưởng tà, ngôn hạnh tà, tà tri, tà kiến, tà
hạnh, tám ngàn người ấy là chánh tri chánh kiến,
tuy là thiểu số, nhưng tà chẳng thể thắng
chánh! Ư thức của tám ngàn người ấy có thể
chuyển biến tai nạn trên cả thế giới, chúng
ta có bằng ḷng làm hay không? Bằng ḷng làm th́ phải
thật sự phát tâm, phải thật sự trừ bỏ
tự tư tự lợi. Đừng hằng ngày cắm
cúi nghĩ tới chuyện kiếm tiền; nghĩ
chuyện kiếm tiền, tai nạn bèn đưa tới.
Tiền đưa tới, th́ tai nạn cũng theo tiền
mà cùng xộc tới. Chúng ta
chẳng cần! Tiếng tăm, lợi dưỡng
thảy đều buông xuống, mỗi ngày ba bữa
cơm ăn được no, quần áo đủ
mặc, có gian nhà nhỏ để che mưa đụt gió
là đủ rồi, “tri túc,
thường lạc” (biết đủ, thường
vui), thứ ǵ cũng chẳng mong cầu! Cầu thế
giới ḥa b́nh, cầu xă hội ḥa hài. Chúng ta thấy
đề nghị của các nhà Lượng Tử Lực
Học bèn thí nghiệm xem có thực hiện được
hay không, xem có hiệu quả hay không? Chuyện này nếu có
người liên lạc, thống kê, ghi danh đầu tiên,
xem thử cả thế giới có được tám ngàn
người ghi danh hay không? Xem thử có ai thuộc Tịnh
Tông Học Hội có hứng thú làm chuyện này,
đứng ra dẫn đầu hay không. V́ tôi thấy thí
nghiệm của tiến sĩ Giang Bổn Thắng tại
hồ Tỳ Bà, tôi cảm thấy [chuyện này] rất có
thể [thực hiện]. Quư vị thấy phạm vi
của Đông Kinh (Tokyo) to cỡ nào, bao nhiêu kẻ tạo
nghiệp, [vậy mà] một trăm mấy chục
người, đại khái là hơn một trăm năm
mươi người, cầu nguyện một giờ bèn
có thể sanh ra hiệu quả to dường ấy.
Thật sự có tám ngàn người hồi đầu
hướng thiện, sức mạnh ấy quá lớn. Tôi
tin tưởng ư thức tập thể rất có khả
năng, lời các nhà khoa học Lượng Tử nói
chẳng thể là giả, đáng để thí nghiệm
một phen.
Đây là nói về “thần lực nan tư”.
Thần lực của mỗi người chính là năng
lực của sáu căn, mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân và ư, gọi là Lục Thông, [tức là] Thiên Nhăn Thông, Thiên
Nhĩ Thông, Tha Tâm Thông, Túc Mạng Thông, Thần Túc Thông,
Lậu Tận Thông, họ đă khôi phục các năng
lực ấy. V́ thế, có thể hóa hiện, họ có
năng lực ấy, có thể đối với khắp
pháp giới hư không giới, chúng sanh có cảm, họ có
thể ứng, nên dùng thân ǵ để độ, bèn
hiện thân ấy, hoàn toàn là “thuận
theo tâm của chúng sanh, ứng với khả năng
nhận lănh của họ”. Khi các vị Bồ Tát ấy
hóa hiện các thứ, có khởi tâm động niệm hay
không? Chẳng có! Quyết định chẳng khởi tâm
động niệm. Khởi tâm động niệm c̣n không
có, đương nhiên lại càng chẳng thể có phân
biệt, chấp trước. Hóa hiện trong nhân gian
như Thích Ca Mâu Ni Phật thuở Ngài tại thế
ứng hiện trong thế gian này, Thích Ca Mâu Ni Phật
suốt đời có động một niệm hay không?
Không có! Chẳng khởi tâm, chẳng động niệm.
Chẳng khởi tâm động niệm, v́ sao có thể
thị hiện? V́ sao có thể giảng kinh, có thể
thuyết pháp? V́ chúng ta, Ngài biểu diễn trong thế gian
này suốt tám mươi năm, từ thuở lăo nhân gia
giáng sanh cho đến khi viên tịch là tám mươi
năm, đó là chuyện chẳng thể nghĩ bàn. Trong
kinh Phật có một thuật ngữ là “pháp nhĩ như thị”, [nghĩa là] Ngài vốn
là như vậy, xác thực chẳng khởi tâm
động niệm. Nếu khởi tâm động
niệm, bèn là phàm phu, chẳng phải là Phật, Bồ
Tát. Đó mới gọi là “nan
tư” (khó thể suy nghĩ).
Quư vị đọc tiếp
lời giải thích của lăo cư sĩ Hoàng Niệm
Tổ: “Chư đại
sĩ vị độ chúng sanh” (các đại sĩ v́
độ chúng sanh). Câu này nói về sự cảm ứng
của chúng sanh. Chúng sanh có cảm th́ các Ngài có ứng.
Đối với cái thân này và ư niệm, chúng ta coi như
bên trong cái thân này bèn có tinh thần, [tức là] có Thọ,
Tưởng, Hành, Thức. Thân thể chúng ta là đài phát
sóng, mà cũng là đài thâu sóng. Chư Phật Như Lai
dẫu ở trong Thường Tịch Quang, [trong cơi] Thường
Tịch Quang chẳng có thân thể, mà cũng chẳng có
hiện tượng tinh thần, các Ngài là Lư Thể của
vạn sự vạn pháp, các Ngài có thể tiếp thu hay
không? Có thể! Có thể phát sóng hay không? Có thể. Các Ngài
thị hiện chính là phát sóng. Trong ư niệm của chúng ta,
chúng ta gặp khó khăn, cầu Phật, cầu Bồ Tát,
ư niệm ấy bất luận là hữu ư hay vô ư, hữu
tâm hay vô tâm, các Ngài đều thu được toàn bộ.
Ư niệm cực kỳ vi tế, bản thân chúng ta
chẳng thể cảm nhận được, nhưng các
Ngài đều thu được. Các Ngài cũng là một
trạm, giống như là một tổng trạm, c̣n chúng
ta là các phân trạm ở các nơi. Toàn thể vũ
trụ giống như một mạng lưới liên
lạc, giống như mạng Internet hiện thời,
nhưng tốc độ nhanh hơn Internet rất
nhiều, chẳng có cách ǵ so sánh được, sóng
điện từ và sóng ánh sáng đều chẳng có cách
nào sánh bằng! Quư vị thấy trong Hoàn Nguyên Quán, Hiền
Thủ đại sư đă căn cứ trên giáo nghĩa
Hoa Nghiêm mà bảo: Bất luận vật chất hay tinh
thần đều có hiện tượng dao động.
Bản thân đă có thể tiếp thu, lại có thể phát
ra. Tốc độ cực nhanh. Trong phần Thị Tam
Biến (giảng về ba thứ trọn khắp), Ngài
đă bảo: “Trọn khắp
pháp giới”. Niệm vừa mới động bèn
trọn khắp pháp giới, tốc độ ấy nhanh
lắm! V́ sao? Nó xứng tánh. Tánh không có thời gian,
chẳng có không gian. Chẳng có thời gian, bèn không có
trước - sau. Chẳng có không gian, bèn không có xa - gần.
V́ vậy, niệm vừa động, toàn bộ
đều biết, khắp pháp giới hư không giới
đều biết.
Phật và các đại sĩ,
[“đại sĩ”] tức là Pháp Thân Bồ Tát thuộc
bốn mươi mốt địa vị, các Ngài ở
trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm, chư Phật Như Lai
trụ trong Thường Tịch Quang Tịnh Độ,
đều có thần thông và đạo lực viên măn. Chúng
ta học Phật không có ǵ khác, mục tiêu chung cực
của học Phật chính là mong thành Phật. Thành Phật
có ǵ tốt đẹp? Trí huệ, đức năng và
tướng hảo của chúng ta đều khôi phục
toàn bộ, minh tâm kiến tánh. Chúng ta cũng có năng
lực giống như các Ngài, có thể hóa hiện,
biến hóa đủ mọi thân h́nh trong ở khắp pháp
giới hư không giới! Chư vị phải hiểu:
Pháp Thân Bồ Tát không có tướng, không có thân tướng
mà có thể hiện hết thảy thân tướng.
Đối với một thân tướng, chúng ta chấp
trước thân tướng ấy, sẽ chẳng thể
biến ra thân tướng thứ hai. Chúng ta có thể
biến, v́ sao chẳng thể biến được? Do chấp
trước tướng này là ta, trừ tướng này ra,
bèn chẳng phải là ta, lầm lỗi ở chỗ này! V́
thế, tu hành trong nhà Phật, điều đầu tiên là
phá cái ải này. Đó là ǵ? Thân Kiến. Chẳng c̣n
chấp trước thân này là chính ḿnh, đó là cái ải
đầu tiên. Phá được cái ải này, quư vị
mới thật sự tiến nhập Phật môn. Trong
Tiểu Thừa, [người như vậy] gọi là Tu
Đà Hoàn; trong Đại Thừa, theo kinh Hoa Nghiêm, đó là
Bồ Tát thuộc địa vị Sơ Tín trong Thập
Tín vị. Ta chấp trước cái thân này là ta, sẽ
chẳng vào được lớp Một, cửa nẻo
này rất khó bước vào! Không c̣n chấp trước
thân này là ta, sẽ bước qua cửa ngơ ấy, Thân
Kiến đă phá rồi! Phá Biên Kiến, Biên Kiến là ǵ?
Đối lập. Các nhà khoa học nói “tương
đối luận” th́ tương đối chính là Biên
Kiến. Cũng tức là như trong Phật pháp đă nói: Trong tự tánh, tuyệt
đối chẳng có đối lập. Bước vào
cửa phải trọn đủ điều kiện này.
Quư vị thấy chúng sanh và Phật là đối lập, mê
và ngộ là đối lập, xa và gần là đối
lập, trước và sau là đối lập.
Trước - sau đối lập, thời gian đă
xuất hiện. Xa - gần đối lập, không gian
đă xuất hiện, toàn là giả. Do đâu mà có? Phát sanh
từ Biên Kiến! Chỉ cần quư vị có Biên Kiến,
sẽ có những thứ ấy. Đă phá trừ Biên
Kiến, chúng chẳng c̣n nữa! Đối với năm
cách nh́n sai lầm ấy, hàng Tiểu Thừa Sơ Quả
đều buông xuống; tuy buông xuống, vẫn chưa
triệt để. Đến khi nào sẽ triệt
để buông xuống? Đạt đến Sơ
Trụ Bồ Tát. Cũng có nghĩa là Sơ Quả và
địa vị Sơ Tín trong Đại Thừa bắt
đầu buông xuống. Buông xuống một phần,
được lợi ích một phần; buông xuống hai
phần, được lợi ích hai phần; buông
xuống mười phần, được lợi ích
mười phần. Ấn Quang đại sư nói như
vậy đó.
Học Phật, trong quá khứ,
Chương Gia đại sư bảo tôi, phương
pháp tuyệt diệu để phàm phu thành Phật là ǵ?
Chính là “buông xuống, thấy
thấu suốt”, [đă thấu thấu suốt rồi
lại] buông xuống. Thấy thấu suốt là liễu
giải chân tướng sự thật, buông xuống bèn
tiến cao hơn, cảnh giới được nâng cao
hơn. Phương pháp tiến từ Sơ Phát Tâm
đến địa vị Như Lai là như thế.
Trước hết, bắt đầu bằng buông
xuống. Buông xuống một chút, quư vị thấy
thấu suốt càng sâu hơn. Sau đó, thấy thấu
suốt lại giúp quư vị buông xuống. Buông xuống
lại giúp quư vị thấy thấu suốt, chúng giúp nhau thành
tựu từ Sơ Phát Tâm cho đến địa vị
Như Lai. Đó là “tiệm tu”,
trừ bỏ dần dần, giống như lên lầu cao.
Năm mươi mốt tầng cấp Bồ Tát, cấp
cao nhất là cấp thứ năm mươi hai,
[địa vị] năm mươi hai chính là địa
vị Diệu Giác, đó là địa vị Phật viên
măn, là Thường Tịch
Quang. Năm mươi mốt cấp ấy, trước
hết là Thập Tín thuộc trong mười pháp giới,
chưa ra khỏi mười pháp giới. Sơ Trụ
thoát khỏi mười pháp giới. Từ Sơ Trụ
trở lên là bốn mươi mốt địa vị
Pháp Thân đại sĩ, gồm Thập Trụ, Thập
Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa,
và Đẳng Giác. Bốn mươi mốt địa
vị ấy trụ ở đâu? Trụ trong cơi Thật
Báo Trang Nghiêm. Các vị Pháp Thân đại sĩ ấy,
ở đây nói là “chư
đại sĩ”, các Ngài là Pháp Thân đại sĩ. Trí
huệ, thần thông, đạo lực, và tướng
hảo của các Ngài đều viên măn, chỉ cần chúng
sanh trong khắp pháp giới hư không giới có cảm,
các Ngài bèn ứng. Chúng ta tưởng Phật, niệm
Phật, các Ngài bèn ứng.
Chúng ta mỗi ngày niệm
Phật, hằng ngày tưởng Phật, h́nh như
chẳng có cảm ứng, đây là do nguyên nhân nào?
Chương Gia đại sư chẳng đợi tôi hỏi
chuyện ấy, Ngài biết tôi hoài nghi, nên chủ
động giảng cho tôi biết. Ngài nói: “Khi anh cầu mà
không có cảm ứng, chẳng phải là không có cảm
ứng, mà là v́ bản thân anh có nghiệp chướng.
Nghiệp chướng của anh quá nặng nề, nên
sự cảm Phật, Bồ Tát bị nghiệp
chướng của anh chướng ngại”. Vậy th́
phải làm sao? Sám trừ nghiệp chướng,
chướng ngại chẳng c̣n nữa. Khi ấy, Ngài
dạy tôi một câu: “Trong
cửa nhà Phật, có cầu ắt ứng”. Nay chúng ta
cầu cho quả địa cầu này chẳng nẩy sanh
tai nạn, có thể ứng hay không? Có thể ứng! Chúng
ta c̣n mong cầu những tinh cầu vận hành trong không
gian chẳng lệch khỏi quỹ đạo, có thể
làm được hay không? Có thể làm được,
sức mạnh ấy to lắm! Có cầu ắt ứng!
Chúng ta phải có tín tâm, lăo nhân chẳng lừa gạt
người khác. Tôi học Phật lúc hai mươi sáu
tuổi, Chương Gia đại sư sáu mươi
lăm tuổi, vị lăo nhân thuộc lứa tuổi ông
nội lẽ nào gạt tôi? Chẳng có lư do ǵ để lừa
tôi, cho nên phải tin tưởng. Phật lại càng
chẳng thể gạt người. Về căn bản,
đức Phật chưa hề khởi tâm động
niệm, lẽ đâu Ngài lừa người? Chúng ta
phải thật sự tin tưởng. Quư vị thấy,
Ngài v́ [độ chúng sanh], “độ”
(度)
là giúp đỡ, v́ giúp đỡ những chúng sanh khổ
nạn mà hóa ra các thứ thân h́nh, đó là “thuận theo tâm chúng sanh, ứng với khả
năng lănh hội của họ”.
“Hành
động chi tốc, tự thiểm điện quang”
(hành động nhanh chóng, giống như ánh chớp), dùng
tia chớp làm tỷ dụ. Chỉ có thể tỷ dụ
phảng phất; trên thực tế, dùng bất cứ
thứ ǵ vẫn đều chẳng thể sánh bằng
tốc độ ấy! V́ sao? Tất cả hiện
tượng vật chất trong thế gian này chẳng có
cách nào sánh bằng sự dao động trong tự tánh. V́
dao động trong tự tánh cực kỳ vi tế,
sự dao động của nó lập tức truyền
khắp pháp giới hư không giới. Hiện thời,
chúng ta biết, trong các hiện tượng vật
chất, tốc độ lớn nhất chính là tốc
độ ánh sáng, trong một giây, [ánh sáng] đi
được ba mươi vạn cây số. Các nhà Thiên
Văn Học dùng tốc độ ấy làm đơn
vị đo lường trong Thiên Văn. Tinh cầu này cách
địa cầu chúng ta bao xa, dùng tốc độ ánh sáng
để đo lường. Tốc độ ấy được
dùng làm đơn vị, gọi là quang niên, tức là
tốc độ của ánh sáng. Trong một giây, [ánh sáng]
đi được ba mươi vạn cây số,
[khoảng cách] ánh sáng ấy đi trong một năm th́
gọi là một quang niên (light-year). Những ngôi sao gần
chúng ta nhất đại khái là đều phải là ba
bốn quang niên. Những ngôi sao xa có đến mấy
trăm quang niên, đó là những ngôi sao
chúng ta có thể dùng viễn vọng kính thông thường
để nh́n thấy trong hiện thời. C̣n có những
ngôi sao xa hơn, cần phải dùng đến viễn vọng
kính thiên văn, quư vị có thể thấy càng nhiều
hơn. Những ngôi sao ấy cách địa cầu của
chúng ta rất xa, ánh sáng của chúng rất mạnh,
khoảng cách quá xa. Nhưng ư niệm của chúng ta vừa
động, khắp pháp giới hư không giới
đều biết. Chẳng phải là tốc độ
ánh sáng hay tốc độ điện từ có thể sánh
bằng, nó quá nhanh chóng.
Hơn nữa, tốc
độ sanh diệt của những ư niệm ấy
lại c̣n vô cùng nhanh lẹ. Trong kinh Bồ Tát Xử Thai,
Thích Ca Mâu Ni Phật hỏi Di Lặc Bồ Tát: “Tâm hữu sở niệm?”
Đó là nói về phàm phu trong lục đạo, trong tâm họ
dấy lên một niệm, đức Phật hỏi Di
Lặc Bồ Tát, trong một niệm ấy có bao nhiêu
tế niệm? Đức Phật hỏi có mấy
niệm, có mấy tướng, có mấy thức? Quư
vị thấy hỏi rất tuyệt diệu!
Tướng là ǵ? Tướng chính là hiện tượng
vật chất, thức là hiện tượng tinh
thần, hỏi rất hay. “Tâm
hữu sở niệm” là trong niệm ấy có mấy
niệm, tức là mấy tế niệm, mấy
tướng, mấy thức. Di Lặc Bồ Tát trả
lời: Trong một cái khảy ngón tay có “ba mươi hai
ức trăm ngàn niệm”. Ba mươi hai ức,
đơn vị là một trăm ngàn, một trăm ngàn là
mười vạn, nhân với ba mươi hai ức thành
ba trăm hai mươi triệu, tức là một cái
khảy ngón tay có ba trăm hai mươi triệu niệm. “Niệm niệm thành h́nh”,
đó là trả lời câu hỏi của đức Thế
Tôn về tướng, “h́nh”
(形)
là h́nh trạng, là hiện tượng vật chất, quư
vị có thể thấy được, “niệm niệm thành h́nh”. “H́nh đều có thức”,
trả lời câu hỏi “có
mấy thức” của đức Phật, thức là
ǵ? Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Bát Nhă Tâm Kinh nói
Ngũ Uẩn là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức.
Sắc chính là “h́nh”, Thọ,
Tưởng, Hành, Thức chính là “thức”.
Sanh khởi như thế nào?
Dao động, tức là một niệm. Niệm ấy
chẳng phải là “tâm hữu
sở niệm”, tâm hữu sở niệm đă tích
lũy bao nhiêu? Quư vị thấy đó, trong một cái
khảy ngón tay, có lẽ là các nhà khoa học cũng có
thể phát hiện, trong một tốc độ nhanh chóng
như thế, hiện tượng vật chất nẩy
sanh, nhưng là vừa sanh ra bèn diệt, quá nhanh chóng, nhanh
hơn tia chớp. Tia chớp chúng ta có thể nh́n thấy, nhưng
chúng ta chẳng thấy điều này, nó quá nhanh chóng! Quư
vị thấy: Nếu để cho chúng ta trông thấy,
đại khái thời gian khảy ngón tay một cái là
thời gian tia chớp lóe tắt, đă là bao nhiêu tế
niệm? Ba trăm hai mươi triệu. Các nhà
Lượng Tử Lực Học nói điều ấy,
chúng tôi nghe rồi rởn da gà, quả thật đă bị
họ phát hiện. Họ nói vật chất là ǵ? Là ư
niệm tích lũy, rất nhiều ư niệm tích lũy,
nhưng họ chẳng nói là bao nhiêu. Di Lặc Bồ Tát
đă nói ra con số. Trong khoảng thời gian dài bằng
một cái khảy ngón tay, có ba trăm hai mươi
triệu. Nhiều ư niệm như thế tích lũy liên
tục sanh ra một hiện tượng, tức là
hiện tượng vật chất, quư vị thấy
được. Nếu là một, hai niệm, quư vị
tuyệt đối chẳng nh́n thấy. Tích lũy
đến ba trăm hai mươi triệu, quư vị
mới thấy. Trong hiện tượng vật chất
ấy lại c̣n có Thọ, Tưởng, Hành, Thức.
Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức vĩnh viễn
chẳng tách rời, vĩnh viễn là một Thể.
V́ thế, tiến sĩ Giang
Bổn Thắng dùng nước làm thí nghiệm, phát
hiện nước có thể thấy, nghe, hiểu
được ư nghĩ của con người.
Nước là hiện tượng vật chất, nó có
thấy, nghe, hay, biết, có Thọ, Tưởng, Hành,
Thức. Thấy, nghe, hay, biết vốn sẵn có trong
tự tánh, tức là có trong Thường Tịch Quang.
Thường Tịch Quang không có hiện tượng tinh
thần, mà cũng chẳng có hiện tượng vật
chất, nhưng nó có thể hiện ra vật chất, mà
cũng có thể hiện ra tinh thần. Khi kiến tánh,
Huệ Năng đại sư đă thưa tŕnh cùng
Ngũ Tổ, Ngài nói câu thứ ba là: “Hà kỳ tự tánh, bổn tự cụ túc”. Ngài
nói câu ấy, [có nghĩa là] chẳng ngờ trong tự tánh
hiện tượng ǵ cũng không có, nhưng nó trọn
đủ, chẳng thiếu thứ ǵ. Nói cách khác, trong
tự tánh có hiện tượng vật chất và hiện
tượng tinh thần, bất quá nó chẳng hiển
lộ. Gặp duyên bèn hiển lộ, duyên là ǵ? Chuyển
động. Sự chấn động ấy tột
bậc vi tế, trong kinh giáo Đại Thừa,
đức Phật bảo: Hễ vừa động, A
Lại Da bèn xuất hiện. A Lại Da từ đâu mà
xuất hiện? Từ trong tự tánh biến hiện,
đó là vọng tâm. Khi chẳng động, nó là chân tâm; khi
động, nó là vọng tâm, A Lại Da đă xuất
hiện. A Lại Da hiện y báo và chánh báo trang nghiêm trong
mười pháp giới, A Lại Da biến hiện. V́
thế, vạn sự vạn vật trong vũ trụ này
do đâu mà có? Tâm hiện, thức biến, giáo pháp
Đại Thừa đă nêu rơ nguyên khởi của vạn
sự, vạn vật, nhân sinh và vũ trụ. Bởi
lẽ đó, chúng sanh có cảm, Phật, Bồ Tát bèn
ứng, hóa hiện đủ mọi thân h́nh. Các Ngài ứng
với tốc độ nhanh tột bậc, chẳng có nào
tưởng tượng được!
“Bồ
Tát năng ư nhất niệm chi khoảnh, phổ chí
thập phương quốc độ” (Bồ Tát có
thể trong khoảng một niệm đến khắp các
cơi nước trong mười phương), đây chính là
ba thứ trọn khắp được nói trong Hoàn Nguyên Quán, trong khoảng một niệm,
trọn khắp pháp giới. Trong khoảng một niệm,
xuất sanh vô tận, tới khắp mười
phương quốc độ, xuất sanh vô tận.
Chư Phật, Bồ Tát ở chỗ nào? Thưa cùng quư
vị, ở ngay nơi đây. V́ sao? Các Ngài chẳng
có khoảng cách, chẳng có không gian, chẳng có thời
gian, ngay trong lúc này, ở ngay nơi đây, nên hiện nhanh
như vậy. “Thượng
cúng, hạ độ”, Ngài đến làm ǵ? Trên là cúng
chư Phật, đó là ǵ? Thân hành, Ngài đến biểu
diễn, [đó là] thân giáo; “hạ
độ” là ngôn giáo, trước hết nêu gương
cho quư vị thấy, làm điều ǵ? Hiếu thuận cha
mẹ, tôn sư, trọng đạo, Ngài đều làm cho
quư vị thấy, chẳng cần nói năng. “B́nh đẳng phổ chiếu”,
“b́nh đẳng” là nói Ngài
chẳng khởi tâm động niệm, chẳng có phân
biệt, chấp trước, đó là b́nh đẳng. “Phổ chiếu”: Phổ (普) là phổ
biến, chẳng có giai cấp, [“phổ
chiếu” là] chiếu trọn khắp pháp giới.
Đây chính là câu cuối trong “ba
thứ trọn khắp” [được giảng trong
Hoàn Nguyên Quán], [tức là] “hàm
dung Không Hữu” (hàm chứa, dung thông Có và Không). Sau
đó, trong Phật môn, quư vị đă thấy và học hai
câu : “Tâm bao thái hư,
lượng châu sa giới” là nói về ư nghĩa ấy.
B́nh đẳng phổ chiếu chính là “tâm bao thái hư, lượng châu sa giới”. Khắp
pháp giới hư không giới và chính ḿnh là một Thể,
b́nh đẳng. Cũng có thể nói Chiếu là “chiếu cố” (照顧: chăm
sóc). Trí huệ, đức năng, tướng hảo, b́nh
đẳng chiếu cố hết thảy chúng sanh, trên là
Phật, Bồ Tát trong mười pháp giới, dưới
đến địa ngục A Tỳ, toàn bộ
đều chiếu cố. Chúng sanh có thể tiếp thu bao
nhiêu? Đó là duyên phận của chính họ. Kẻ
nghiệp chướng sâu chẳng tiếp nhận
được, người thiện căn sâu dầy bèn
tiếp nhận. V́ thế, phải biết: Chư
Phật, Bồ Tát b́nh đẳng phổ chiếu, mỗi
cá nhân chúng ta nhận được lợi ích [tùy thuộc
khả năng] tiếp nhận của chúng ta. Bộ máy
tiếp nhận của chúng ta có vấn đề. Có lúc bộ
máy tiếp nhận rất tốt, có khi bộ máy tiếp
nhận bị hỏng hóc, do bị hỏng hóc nên chẳng
nhận được. Do vậy, chúng ta biết:
Đoạn ác tu thiện, tích tập thiện căn
trọng yếu dường ấy! Quư vị dốc công
sức nơi đây, tin tức của hết thảy
chư Phật quư vị đều dễ dàng nhận
được, giúp cho quư vị tăng trưởng trí huệ
và đức hạnh.
“Diệc
vô ưu, liệt, thân, sơ, vật, ngă, bỉ, thử chi
phân” (cũng chẳng phân biệt hơn, kém, thân, sơ,
vật, ta, kia, đây), nói theo cách hiện thời, pháp
giới vốn là ái (yêu thương), ái là cốt lơi
của Tánh Đức. Do vậy, tôi học Phật,
thỉnh giáo thầy Lư, tôi thưa: “Cổ thánh tiên hiền
của Trung Quốc như Nghiêu, Thuấn, Văn
Vương, Vơ Vương, Châu Công, Khổng, Mạnh, có
thể là chư Phật, Bồ Tát thị hiện tại
Trung Quốc hay không? Người Trung Quốc có cảm,
Phật, Bồ Tát đến thị hiện, ứng đến”.
Tôi nêu lên câu hỏi như vậy, thầy Lư trả
lời: “Nói theo Lư th́ suông, nhưng xét theo Sự th́ chưa
có chứng cớ”. Câu đáp này cũng rất tuyệt, nói
theo Lư th́ thông suốt. Những vị đại thánh
đại hiền ấy ở Trung Quốc, rất
nhiều câu nói của các vị đại thánh đại
hiền tại Trung Quốc có ư nghĩa tương thông
với kinh Phật. Quư vị thấy tổ tiên nói về
Ngũ Luân, điều đầu tiên là “phụ tử hữu thân” (cha con có t́nh thân ái),
đó là thân ái, là cốt lơi của Tánh Đức.
Người Trung Quốc ở khắp thế giới, tôi
đă gặp rất nhiều người ngoại quốc
thật sự có đức hạnh, có học vấn,
họ nghiên cứu lịch sử và văn hóa Trung Quốc,
đều bội phục năm vóc sát đất, tôn kính,
bội phục! Nhất là tiến sĩ Thang Ân Tỷ
(Arnold J. Toynbee) của Anh Quốc, hết sức tôn sùng
văn hóa truyền thống của Trung Quốc, thậm
chí c̣n nói: “Để giải
quyết vấn đề xă hội trong thế kỷ hai
mươi mốt, chỉ có học thuyết Khổng
Mạnh của Trung Quốc và học thuyết Đại
Thừa Phật pháp”. Ông ta nói như vậy, đấy
là một sử gia kiêm triết gia của nước Anh.
Người Trung Quốc có trí huệ, thông hiểu giáo
dục, có trí huệ trong giáo dục, có phương pháp giáo
dục, có kinh nghiệm giáo dục, có thành tích và hiệu
quả trong giáo dục, ông ta đă nói đúng, chẳng sai!
Cốt lơi trong nền giáo dục của Trung Quốc là ǵ?
Chính là “phụ tử hữu
thân”, đó là thân ái. Mục đích giáo dục, mục
đích bậc nhất trong giáo dục là [khiến cho] t́nh
thân ái như thế trong cả một đời chẳng
bị biến chất th́ giáo dục bèn thành công. Mục
đích thứ hai là phát huy rộng răi t́nh thân ái ấy. Ḷng
yêu thương cha mẹ và anh em của quư vị, nếu
mở rộng ra sẽ thành yêu thương gia tộc, yêu
thương cḥm xóm, láng giềng, yêu xă
hội, yêu quốc gia, yêu dân tộc, đến cuối
cùng bèn “hễ là người,
đều phải yêu thương”, mở rộng ḷng
yêu thương ấy. Tổ tiên dạy bảo hậu
duệ ngàn năm, vạn đời, các đức mục
quy nạp lại, chẳng ngoài mười hai chữ, “hiếu, đễ, trung, tín,
lễ, nghĩa, liêm,
sỉ, nhân ái, ḥa b́nh”, toàn bộ được bao
gồm trong ấy. Quư vị thấy cốt lơi của
mười hai chữ ấy là Ái. Mười hai chữ
ấy, mỗi chữ đều lưu xuất từ tâm
yêu thương, bản thể của chúng chính là ái. V́
thế, giáo dục của Trung Quốc là giáo dục yêu
thương, chúng ta phải hiểu điều này. Quư
vị yêu mến con người sẽ chẳng thể
hại người.
Nói về quan hệ, Nho gia Trung
Quốc cũng có ư nghĩa ấy, nhưng dường
như Đạo gia nói càng rơ ràng, minh bạch hơn. Lăo
Tử bảo: “Thiên địa
dữ ngă đồng căn, vạn vật dữ ngă
nhất Thể” (trời đất và ta cùng một
cội, vạn vật và ta cùng một Thể), chẳng
phải là có cùng một ư nghĩa với những
điều được nói trong Hoàn Nguyên Quán hay sao?
Khắp pháp giới hư không giới và ta có quan hệ ǵ?
Một Thể. Quan hệ vừa nói ấy chính là luân lư. Nhà
Phật giảng luân lư đến mức rốt ráo viên măn,
khắp pháp giới hư không giới và chính ḿnh là một
Thể. Do vậy, đối với ḷng yêu thương
này, phải yêu thương tất cả động
vật, phải yêu thương tất cả thực
vật (cây cối, hoa, cỏ), phải yêu thương núi,
sông, đại địa, phải yêu thương hư
không pháp giới, v́ sao? Một Thể mà! Quư vị thấy
ḷng yêu thương ấy to lớn lắm, phạm vi
chẳng biết lớn hơn [quan
niệm]“hễ là người
đều nên yêu thương” bao nhiêu lần. Khắp
pháp giới hư không giới, kể cả các
chiều không gian khác nhau, hoàn toàn là một Thể với
chúng ta. Xác thực là “tâm yêu thương trọn khắp
pháp giới, thiện ư đầy ắp nhân gian”, xă hội
này c̣n có vấn đề ǵ nữa? Xă hội an
định, ḥa hài, hạnh phúc mỹ măn. Chắc chắn
là chúng ta sống trên tinh cầu này giống như Tây
Phương Cực Lạc thế giới do đức
Phật đă giới thiệu, tận thiện, tận
mỹ, chẳng có mảy may tai nạn nào. Tây Phương
Cực Lạc thế giới, trong kinh này đă nói rơ ràng là
do “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác” biến hiện.
Thế giới hiện thời phiền toái rất
lớn, những thứ ǵ biến hiện? Tham, sân, si,
mạn, nghi, giết, trộm, dâm, dối, rượu chè,
đó là thế giới hiện thời của chúng ta. V́
thế, xă hội động loạn, tai họa ǵ cũng
đều xuất hiện trên địa cầu. Chúng ta
hăy lắng ḷng suy xét, toàn là tự làm, tự chịu!
Thật sự hiểu rơ ràng, minh bạch rồi, sẽ
chẳng c̣n oán trời, trách người, hiểu ǵ? Tự
làm, tự chịu. Muốn thay đổi, nhất
định phải thay đổi từ tâm thái, phải
buông tâm thái bất thiện xuống. Thánh hiền xưa nay
trong ngoài nước, chư Phật, Bồ Tát dạy chúng
ta Thập Thiện Nghiệp Đạo, chuyển ác thành
thiện, chuyển mười ác thành mười thiện,
vấn đề bèn được hóa giải. Chuyển
mê thành ngộ, chuyển phàm thành thánh, quư vị bèn
vượt thoát. Chuyển phàm thành thánh, vượt thoát
mười pháp giới; chuyển mê thành ngộ,
vượt thoát lục đạo luân hồi. Chuyển ác
thành thiện, tất cả tai nạn và vấn đề
trên thế gian này đều được hóa giải.
Thật sự tin tưởng,
chớ nên có mảy may hoài nghi nào. Hoài nghi là căn bản
phiền năo. Căn bản phiền năo gồm sáu món là tham,
sân, si, mạn, nghi, cuối cùng là ác kiến, toàn là cách nh́n sai lầm, nh́n trật rồi! Đối
với Nghi trong sáu căn bản phiền năo ấy,
chớ nên hoài nghi thánh nhân, chớ nên hoài nghi Phật,
Bồ Tát, v́ sao? Các Ngài là bậc minh tâm kiến tánh, làm sao
có sai lầm cho được? Chúng ta chỉ có một tí
thông minh mà thôi, chẳng có trí huệ. Chúng ta dùng trí huệ
[kém cỏi, vặt vănh] của chính ḿnh để phê b́nh
những bậc thánh nhân ấy, tội lỗi quá lớn!
Giống như gă trẻ tuổi vô tri, hoặc một
đứa học tṛ bé mọn phê b́nh Khổng Tử,
tội lỗi nặng lắm! V́ vậy, Nghi trong căn
bản phiền năo chẳng phải là nghi hoặc b́nh
thường. Nghi hoặc b́nh thường làm sao có thể
xếp vào đây cho được? Nghi hoặc giáo
huấn của thánh hiền, nghi hoặc sự thành tựu
trong tu hành của bậc thánh nhân, vấn đề này
nghiêm trọng lắm. Bản thân quư vị nghi hoặc
chẳng sao! Bất quá quư vị bị mắc hại là
đọa trong tam đồ mà thôi. Nếu ảnh hưởng
đến đại chúng trong xă hội, tội ấy
rất sâu, quư vị phải gánh lấy trách nhiệm nhân
quả ấy. V́ lẽ đó, Bồ Tát nêu gương
tốt nhất trong thế gian này. Quư vị thấy “thượng cúng” chính là
dạy chúng ta phải biết tôn trọng thánh hiền và
giáo huấn của thánh hiền. Đừng nên khinh dễ
tổ tông, trí huệ và đức hạnh của tổ
tông quả thật cao hơn chúng ta. Tổ tông thấy
những khoa học kỹ thuật của chúng ta trong
hiện thời là tài nghệ vặt vănh[1],
chẳng ra ǵ! Có đem lại lợi ích cho thế giới
hay không? Chưa chắc!
Quư vị thấy trên thế
giới hiện thời có lắm tai nạn dường
ấy là do khoa học kỹ thuật đem lại.
Chẳng biết toàn thể vũ trụ là một thể
hữu cơ, may mắn là hiện thời các nhà
Lượng Tử Lực Học đă phát hiện.
Nếu chẳng phát hiện, Phật giáo vĩnh viễn
bị người ta coi là mê tín. Hiện nay ta đă
biết cây cối, hoa, cỏ là một thể hữu
cơ, chúng có thể thấy, nghe, hiểu được ư
nghĩ con người. Quư vị tùy tiện chặt
đốn chúng, chúng chẳng hận quư vị ư? Quư
vị yêu thương chúng, chúng bèn ưa thích quư vị. Quư
vị tùy tiện giày xéo, chúng sẽ oán hận quư vị.
Oán hận bèn báo thù, sanh ra những thứ đều có
độc, quư vị ăn vào bèn bị ngă bệnh, đó
là chúng nó báo thù quư vị. Núi, sông, đại địa
cũng có linh tánh, chúng là hữu cơ. Quư vị nói
đến chuyện đào quặng th́ đào cạn
một chút, chẳng sao, quư vị được thụ
dụng đôi chút; nhưng nếu đào quá sâu mà chẳng
thương lượng với nó, tôi tin là nó rất
bực bội, hễ bực bội bèn lắc thân thể
một cái, một trận động đất lớn
bèn xảy ra. Quư vị nghĩ tới chỗ này, tổ tông
có trí huệ. Khi tổ tông muốn khai thác núi non, trước
hết phải tế Sơn Thần, chẳng phải là mê
tín! Trong nhà Phật, muốn chặt mấy cội cây
để dựng một túp lều tranh nhỏ,
đức Phật dạy chúng ta: Ba ngày trước đó,
quư vị xem trúng mấy cây nào th́ phải tế lễ, cúng
dường, tụng kinh, niệm chú hồi hướng
cho các thần cây ấy, mời họ dọn nhà, ba ngày sau
mới chặt những cây ấy. Đức Phật nói
rất rơ ràng, chỉ cần cây cao quá đầu
người sẽ có thần cây. Nay chúng ta biết là
chuyện như thế nào: Phải lễ phép, tôn trọng
nó, chúng ta yêu thương nó, nó cũng yêu thương chúng
ta, sẽ không sanh loạn. Người hiện thời tin
tưởng khoa học, hoàn toàn chẳng tin những
chuyện này. Chúng tôi hy vọng Lượng Tử Lực
Học phát triển nhanh chóng, dăm ba năm nữa sẽ
phổ biến trên toàn thể thế giới, mọi
người đều hiểu, đều biết nói
“tất cả hiện tượng vật chất thảy
đều có tác dụng tinh thần”, tức là đều
có Thọ, Tưởng, Hành, Thức.
Người học Phật
chúng ta hiểu rơ, chúng tôi cũng đă làm thí nghiệm
suốt mười năm, mười năm ấy rất
có thành tựu và hiệu quả, chẳng thể nghĩ
bàn! Chúng tôi đến Úc đă mười năm rồi,
sang năm sẽ là kỷ niệm mười năm. Ở
Úc, chúng tôi có một vườn rau rất to, trồng
rất nhiều loại cây, trồng đến hơn ba
mươi loại. Cây ăn trái hằng năm đều
thâu hoạch dồi dào. Chúng tôi cung kính, cúng dường
những loại rau dưa, hoa cỏ, cây cối ấy,
rất dụng tâm chăm sóc. Lại c̣n cứ cách một
khoảng ngắn bèn đặt một máy niệm Phật,
cây cối trong cả vườn rau đều nghe Phật
hiệu. Chúng tôi chẳng dùng phân bón hóa học, chẳng dùng
thuốc trừ sâu. Dùng phân bón hóa học và thuốc trừ
sâu là có lỗi với thực vật. V́ sao? Quư vị
hại nó, đem chất độc hại nó, trong thời
gian dài, trong rau trái cũng có chất độc, cho nên quư
vị ăn vào sẽ bị bệnh. Chúng ta chớ nên
hại nó, nó cũng sẽ chẳng hại chúng ta. So
với các nông phu trồng rau lân cận, vườn rau
của chúng tôi tươi tốt hơn. Họ đến
chỗ chúng tôi thăm viếng, hỏi chúng tôi trồng
như thế nào? V́ sao có thể trồng trọt tươi
tốt như thế? Chúng tôi bảo họ: “Chẳng dùng
thuốc trừ sâu, chẳng dùng phân bón hóa học, mà dùng máy
niệm Phật để niệm A Di Đà Phật cúng
dường chúng nó”. Chúng tôi không có thuốc sát trùng th́ [trong
vườn rau] có những loài tiểu trùng hay không? Có. Chúng
tôi dành ra một khu nhỏ cho loài tiểu trùng, chúng tôi
cũng hết sức dụng tâm chiếu cố khu ấy,
trồng những rau trái ấy để chuyên cúng
dường loài tiểu trùng. Chúng nó đều đến
ăn trong khoảnh vườn đấy, khoảnh
vườn sát bên cạnh không dành cho chúng ăn, chúng bèn
chẳng ṃ đến. V́ thế, đối xử với
tiểu trùng dễ hơn con người, chúng biết nghe
lời, rất giữ chữ Tín, chú trọng chữ Tín,
coi trọng sự ḥa thuận. Đối với các loài chim
nhỏ cũng giống như thế, quư vị thấy
chúng tôi chẳng cần phải bọc
những cây ăn trái lại. Chẳng cần! Đối
với những loài chim nhỏ cũng có giao ước,
chúng tôi dành ra cho chúng mấy cây. Đối với mỗi
loại, bèn để ra một, hai cây cho loài chim
nhỏ, các ngươi ăn th́ đến chỗ dành riêng
mà ăn. Cây nào chẳng chỉ định dành cho chúng nó
ăn, chúng nó cũng rất tuân thủ ước
định, chẳng đến ăn [sai chỗ]. V́
thế, mỗi năm chúng tôi thu hoạch dồi dào, mà
những loài trùng nhỏ, chim nhỏ ấy cũng rất
vui sướng, chúng ta cùng nhau sinh tồn, tăng trưởng,
đối xử ḥa thuận. Chúng tôi bảo vệ chúng,
chúng cũng rất tôn trọng chúng tôi, quư vị nói xem:
Tốt đẹp lắm hay không? Chớ nên tổn
thương chúng. Đặc biệt là chẳng dùng phân bón
hóa học, chẳng dùng thuốc trừ sâu, chúng ta tôn kính
đại địa, đại địa sẽ gia
hộ chúng ta. Khi chúng ta dùng thuốc trừ sâu và phân bón hóa
học sẽ khiến đất bị nhiễm
độc, những thứ trồng trọt năm nay khá
lắm, nhưng sau hai ba năm sẽ chẳng trồng
được nữa! V́ sao? Trong đất có chất
độc, chẳng thể trồng được nữa!
Đó là ai đă tạo nghiệp? Phải thừa nhận
“tự làm, tự chịu”.
Do con người hiện
thời rất tệ, bất hiếu với cha mẹ,
bất kính sư trưởng, chẳng tin tưởng thánh
hiền, không tôn trọng. Không chỉ là chẳng tôn
trọng con người, mà c̣n chẳng tôn trọng
động vật, mặc t́nh sát hại. Chẳng tôn
trọng hoa, cỏ, cây cối, chẳng tôn trọng núi,
sông, đại địa, nên xuất hiện rối
loạn nhiều ngần ấy. Hăy xem thử trên thế
giới này có thật sự t́m được tám ngàn vị Bồ Tát, Bồ Tát sống,
đến cứu địa cầu này. Nếu chẳng
t́m được, tai nạn trên địa cầu này
sẽ thật sự xuất hiện. Nếu thật
sự có thể t́m được đúng số
người như các nhà khoa học đă nói, từ tám ngàn
người trở lên, thử thí nghiệm xem, chúng ta
đến cầu nguyện, thật sự sửa lỗi
đổi mới, đoạn ác tu thiện, hồi
hướng công đức ấy cho địa cầu,
hồi hướng cho hết thảy chúng sanh, có lẽ
sẽ cứu được. Quan điểm ấy là quan
điểm của Phật, Bồ Tát. Đó là chánh xác, “chánh niệm” là b́nh
đẳng phổ chiếu, chẳng có hơn, kém, thân,
sơ, chẳng [phân chia] vật, ta, đây, kia. Thật
sự thấy khắp pháp giới hư không giới và
chính ḿnh là một Thể, đó là thật sự học
Phật. Người thật sự học Phật,
chuyện đầu tiên là trừ khử tham, sân, si.
Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, suốt
đời v́ chúng ta thị hiện, quư vị thấy Ngài
sống đơn giản lắm, giữa trưa ăn
một bữa, nghỉ dưới cội cây, ba y, một
bát, sung sướng vô cùng. Quư vị cần ǵ phải mong
mỏi có lắm tiền của dường ấy,
đúng là hồ đồ! Của cải có phải là
của quư vị hay không? Trong các buổi giảng, chúng tôi cũng
nói quá nhiều lần. Bao nhiêu tiền quư vị bỏ trong
túi trên thân bèn là của quư vị. Tiền chẳng ở
trên người bèn chẳng phải là của quư vị. Quư
vị có biết hay chăng? Quần áo ta mặc trên
người là của ta, khi chẳng mặc trên
người bèn chẳng phải là của ta. Quư vị
ở trong căn nhà này, cái nhà này là của quư vị.
Rời khỏi căn nhà ấy, căn nhà chẳng c̣n
thuộc về quư vị nữa! Nếu quư vị
thường có thể quán như thế, quư vị đă
“biết đủ, thường vui” rồi! Dẫu nhiều
đến mấy, chẳng phải là của quư vị. [Tiền]
bỏ trong ngân hàng, chẳng dùng được th́ chẳng
phải là của quư vị. Ngân hàng có thể bị đóng
cửa. Hiện thời đang bị khủng
hoảng tài chánh, các ngân hàng ngoại quốc bị đóng
cửa rất nhiều. Thứ ǵ là thật? Tích lũy công
đức là thật, [công đức] là của chính ḿnh.
Quư vị có thể hiếu thuận cha mẹ, tôn trọng
trưởng bối, yêu thương, che chở
hết thảy chúng sanh, công đức ấy sẽ mang
theo được, nó thật sự là của chính quư
vị. Vật ngoài thân toàn là giả, chẳng thể mang
theo thứ ǵ! Trong Phật pháp thường nói:
Người thông minh, người có trí huệ phải làm
chuyện có thể mang theo được. Ngàn muôn lần
chớ nên làm chuyện chẳng mang theo được!
Tiếp theo đó, “Hội Sớ viết:
Điện quang hữu tứ nghĩa” (Sách Hội
Sớ giảng: “Ánh chớp có bốn nghĩa”), thứ
nhất là “tốc tật
nghĩa” (nghĩa là nhanh chóng), nó quá nhanh. Chúng tôi vừa tŕnh
bày cùng quư vị, Di Lặc Bồ Tát bảo chúng ta: Trong
một cái khảy ngón tay có ba trăm hai mươi
triệu lần sanh diệt, tốc độ này quá nhanh.
Thứ hai là “phá ám nghĩa”,
[tức là] soi tan tăm tối, mở rộng thành ư
nghĩa “trí huệ phá mê”. Lũ phàm nhân chúng ta mê hoặc,
điên đảo, cội gốc mê hoặc ở chỗ
nào? Chớ nên không biết điều này, căn cội
của mê hoặc là tham. Quư vị thấy Phật pháp
xếp tham vào vị trí đầu tiên trong Tam Độc.
V́ sao quư vị bị mê? Chính là v́ quư vị có tham tâm, tham tâm
càng nặng, mê càng sâu, nên tạo nghiệp cũng nặng
nề! Thứ hai là sân khuể, tham mà không đạt được
bèn nổi giận, chứ tham mà đạt được
sẽ chẳng nổi nóng. V́ thế, căn bản là
một chữ Tham! Tất cả hết thảy ác
nghiệp, hành vi bất thiện đều do chữ Tham
này dẫn khởi. Tất cả hết thảy hành vi
thiện đều do ái dẫn khởi. Sự thân ái trong “phụ tử hữu thân” là
căn cội của hết thảy thiện pháp, đó là
thiện căn! Tham là căn cội của tất cả
hết thảy ác pháp và bất thiện nghiệp. Chúng ta tu
hành, trước hết phải phá trừ căn cội
này, phải nhổ căn cội ấy. Trước
hết, quư vị phải biết tri túc, tri túc
thường lạc. Con người đạt đến
mức vô cầu, phẩm hạnh tự cao. Quư vị có
ức vạn tài vật, mà vẫn mong tưởng, tham lam,
sẽ chẳng có nhân phẩm, quư vị vẫn chưa
biết đủ!
Chẳng phải là đức
Thế Tôn v́ chúng ta thị hiện tri túc ư? Bổ
Xứ Bồ Tát muốn đến thị hiện thành
Phật trong thế gian này, trước đó Ngài trụ
tại đâu? Ở trong Đâu Suất Thiên, Đâu
Suất nghĩa là ǵ? Chính là Tri Túc. Quư vị thấy ư
nghĩa biểu thị pháp, trước hết phải
dừng chân trong Đâu Suất Thiên. Đâu Suất Thiên
thọ mạng bốn ngàn năm, trú chân nơi đó rồi
xuống nhân gian thị hiện thành Phật, vẫn là
đến thị hiện Tri Túc. Chúng ta phải chú tâm
thấu hiểu, dụng ư này rất sâu. Chính ḿnh dư
dả th́ phải ban cho người thiếu thốn,
phải giúp đỡ họ. Bố thí chẳng bị
thiệt tḥi, càng thí càng nhiều. Thí tài được của
cải, thí pháp được thông minh, trí huệ, thí vô úy
được khỏe mạnh, sống lâu. Của
cải, thông minh, trí huệ, khỏe mạnh, sống lâu là
những điều quư vị thường mơ
tưởng, mong cầu, v́ sao chẳng tu ba cái nhân ấy?
Tu ba cái nhân ấy sẽ đắc chánh tài (tiền của
chánh đáng), tức là những của cải quư vị
ắt có. Nếu không phải là tu nhân th́ của cải
đạt được sẽ chẳng phải là
của quư vị, phải biết điều này. Nhất
là dùng thủ đoạn chẳng chánh đáng để
mong đạt được của cải, đó là
tạo tội nghiệp. Tạo tội nghiệp th́ có
thể đạt được hay không? Chẳng
đạt được! Nếu thật sự có thể
đạt được th́ tạo tội nghiệp
cũng có thể được, thật sự phát tài mà!
Chẳng đạt được! V́ thế, dùng thủ
đoạn chẳng chánh đáng mà đoạt
được của cải th́ vẫn là do trong mạng
quư vị vốn có, quư vị nói xem có oan uổng hay không?
Khi chẳng dùng tới thủ đoạn ấy, của
cải vẫn đưa đến, có thể là đưa
đến càng nhiều hơn, v́ sao? Đúng mực, b́nh thường.
Dùng thủ đoạn bất b́nh thường để
đạt được th́ đă bị chiết
giảm, hao bớt rồi. Trong mạng quư vị có một
trăm ức, quư vị dùng thủ đoạn bất chánh
đáng [để đoạt lấy] th́ chỉ có
được năm mươi ức bèn đă cảm
thấy tuyệt diệu lắm rồi; thật ra, quư
vị đă bị thiếu mất một nửa, nhưng
quư vị chẳng biết. Phật, Bồ Tát có thể
thỏa măn dục vọng của hết thảy chúng sanh, hằng
thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức. Quư vị mong
cầu phát tài, Phật, Bồ Tát cũng chỉ dạy,
giúp đỡ quư vị, bởi lẽ, có đại
đạo để sanh sôi tiền của. Bồ Tát
dạy quư vị điều ǵ? Dạy quư vị tu tài
bố thí. V́ sao trong mạng quư vị có tiền của?
Trong đời quá khứ ưa thích tu tài bố thí, trong
đời này, trong mạng quư vị có cái kho tiền tài,
bất luận theo đuổi nghề nghiệp nào, quư
vị cũng kiếm tiền được v́ trong
mạng vốn có. Trong mạng không có, bất luận kinh
doanh thứ ǵ cũng đều bị cụt vốn,
chẳng kiếm được tiền. Chúng ta phải
hiểu rơ ràng, rành rẽ đạo lư này. V́ thế, “điện quang” có ư nghĩa
phá mê, soi tan tối tăm, có ư nghĩa phá mê, khai ngộ.
Thứ ba là “bất trụ” (chẳng trụ), “bất trụ” là chẳng ngừng, chẳng
trụ, giống như tia chớp vừa lóe sáng bèn
chẳng c̣n nữa. Ư niệm c̣n nhanh hơn tia chớp. Các
nhà khoa học cho biết: Hiện tượng vật
chất chẳng thật, đúng là giống như tia
chớp, tốc độ của nó quá nhanh chóng. V́ thế,
chúng ta thấy hiện tượng vật chất là do
rất nhiều ư niệm tích lũy mới thấy
được. Di Lặc Bồ Tát đă cho chúng ta biết
con số: Ba trăm hai mươi triệu ư niệm tích
lũy lại mới giống như tia chớp, tia
chớp chẳng nhanh bằng một cái khảy ngón tay.
Bởi lẽ, tia chớp ít nhất lâu một giây hoặc
nửa giây; trong một giây ấy, người khảy
nhanh, tôi có thể khảy bốn lần, trong một giây,
tôi tin là có người c̣n khảy nhanh hơn tôi. Nếu nói
là có thể khảy đến năm lần, tức là
một giây có thể khảy năm lần, một lần
là ba trăm hai mươi triệu, nên nhân với năm
thành một ngàn sáu trăm triệu. Quư vị thấy trong
một giây sanh diệt một ngàn sáu trăm triệu
lần, tốc độ nhanh ngần ấy, nhiều
niệm như thế tích lũy lại trong một giây bèn
có thể thấy. Nay chúng ta đă thấy hiện
tượng vật chất này, quư vị biết đó là
bao nhiêu ư niệm, quyết định chẳng phải
chỉ có vậy! Một ngàn sáu trăm triệu ư niệm
tích lũy liên tục sẽ hiện ra giống như tia
chớp, vậy th́ những hiện tượng vật
chất mà chúng ta thấy được sẽ là bao nhiêu [ư
niệm tích lũy]? Hiện thời, điều này đă
được các nhà Lượng Tử Học chứng
minh.
Kinh Phật dạy chẳng sai,
v́ nó (các hiện tượng vật chất) niệm
niệm chẳng trụ. Do chân tướng sự thật
này, đức Phật mới bảo: “Phàm những ǵ có h́nh tướng, đều là
hư vọng”, “hết
thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt,
bóng”, đức Phật mới nói những lời
ấy. Tổng kết sáu trăm quyển kinh Đại
Bát Nhă, tôi tổng kết thành mười hai chữ: “Nhất thiết pháp vô sở
hữu, tất cánh không, bất khả đắc”
(hết thảy các pháp vô sở hữu, rốt ráo không,
chẳng thể được). Đây là nói với quư
vị chân tướng, do “bất
khả đắc” nên quư vị phải buông xuống,
buông xuống th́ quư vị minh tâm kiến tánh, mới
giống như Phật, Bồ Tát. Nếu thật sự có
thể đạt được mà Phật, Bồ Tát
khuyên chúng ta buông xuống th́ chẳng hợp lư! Phật,
Bồ Tát thấy chân tướng sự thật, xác
thực là “bất khả
đắc”, ngay cả thân thể này cũng là chẳng
thể được, một hơi thở ra chẳng hít
vào được nữa, bèn là đời sau, há lẽ nào
thân thể này là của chính ḿnh? Hơi thở chưa
dứt, thân thể này là của quư vị. Hơi thở
vừa bặt, thân thể chẳng c̣n
là của quư vị nữa. Do vậy, nhà Phật nói: “Sanh mạng trong hơi thở”.
Sau đấy, chúng ta mới biết, đời
đời kiếp kiếp chúng ta đă sống tại
đâu? Sống trong cảnh giới huyễn tướng,
hoàn toàn chẳng phải là thực tại. Chân tướng
là ǵ? Chân tướng là Không, vạn pháp đều là Không,
chân tướng là như vậy đó! Đừng
hiểu chữ Không này là Vô! Trong cái Không ấy có huyễn
tướng sanh diệt trong từng sát-na. V́ nó niệm
niệm bất khả đắc nên gọi là Không.
Thứ tư là “vô phân biệt nghĩa. Bồ Tát nhất niệm
nhất thời, phổ chí thập phương thế
giới, thượng cúng dường chư Phật,
hạ lợi ích chúng sanh, vô hữu xuất nhập
tiền hậu tướng, như điện tốc
tật. Bồ Tát năng chiếu chư Phật hội,
năng phá chúng sanh ám, như điện phá ám. Bồ Tát
năng hóa vô lượng thân ứng hiện vi trần sát,
vô hữu trụ xứ, vô hữu trẫm tích, như
điện kích không trung, vô sở tùng lai, khứ vô
định tích. Bồ Tát b́nh đẳng, vô hữu tiên
thử hậu bỉ đẳng phân biệt tâm, như
điện quang chiếu vật, vô bỉ thử tiên
hậu phân biệt” (Ư nghĩa vô phân biệt. Bồ Tát
trong một niệm, một thời, tới khắp
mười phương thế giới, trên cúng
dường chư Phật, dưới lợi ích chúng sanh,
chẳng có tướng xuất, nhập, trước, sau,
nhanh chóng như chớp. Bồ Tát có thể chiếu chư
Phật hội, có thể phá tối tăm cho chúng sanh
như tia chớp xua tan tối tăm. Bồ Tát có thể
hóa vô lượng thân, ứng hiện trong các cơi
nước nhiều như vi trần, chẳng có trụ
xứ, chẳng có dấu vết, giống như chớp
lóe giữa không trung, chẳng từ đâu đến,
chẳng có dấu vết nhất định sẽ đi
về đâu. Bồ Tát b́nh đẳng, chẳng có tâm phân
biệt “cái này trước, cái kia sau” v.v…, giống như
ánh chớp soi các vật, chẳng phân biệt cái này
trước, cái kia sau). Đoạn giải thích này hay quá.
Sách Hội Sớ đă giải thích rơ bốn ư nghĩa
của ánh chớp. “Bồ Tát
nhất niệm nhất thời”, bốn chữ này
chẳng dễ hiểu, bốn chữ này là lời
thật. Niệm chỉ có một niệm, thời chỉ
có một thời. Nhất niệm nhất thời chính là như
Di Lặc Bồ Tát đă nói “nhất
niệm nhất thời”. Do vậy, trong kinh Phật,
vừa mở đầu, nhất định sẽ là “như thị ngă văn, nhất
thời”. Ngài chẳng nói năm, tháng, ngày, [v́] năm,
tháng, ngày là giả, chẳng thật. Nói “nhất thời” là thật. Nhất thời là khi
niệm khởi, niệm diệt, vô cùng ngắn ngủi,
tạm bợ. Nhất niệm nhất thời mà tới
khắp mười phương thế giới chính là “trọn khắp pháp giới”
như Hoàn Nguyên Quán đă nói, nhất niệm nhất
thời trọn khắp pháp giới. Đấy là
mười phương thế giới chúng sanh có cảm,
chư Phật Như Lai, Pháp Thân Bồ Tát bèn có ứng, các
Ngài ứng hóa trong thế gian này, giúp hết thảy chúng
sanh giác ngộ, có ư nghĩa như thế. Chúng sanh đang
mê, mười pháp giới đều là mê, chỉ có mê
nhẹ hay nặng khác nhau. Đối với người
trong mười pháp giới th́ bốn thánh pháp giới mê
nhẹ, lục đạo mê nặng nề. Có thể nói
mười pháp giới chính là do mê ngộ nặng hay
nhẹ khác nhau mà h́nh thành. Hễ mê nhẹ nhất th́ là
Phật pháp giới trong mười pháp giới, mê nặng
nhất là địa ngục A Tỳ, là địa
ngục A Tỳ trong các địa ngục. Mê hay ngộ
khác nhau mà thôi, trừ điều này ra, chẳng có ǵ khác
nhau, mê hay ngộ bất đồng.
Phật muốn giúp cho hết
thảy chúng sanh ĺa khổ được vui, giúp như
thế nào? Giúp quư vị phá mê khai ngộ. Bồ Tát biết
tất cả hết thảy khổ nạn của quư
vị do v́ mê nên mới tạo thành, tất cả hết
thảy sự vui của quư vị do giác ngộ tạo
thành, chỉ cần quư vị từ mê hoặc mà giác
ngộ, vấn đề đă được giải
quyết. Chư Phật, Bồ Tát dùng phương pháp ǵ để
giúp đỡ hết thảy chúng sanh? Dùng giáo học. Thích
Ca Mâu Ni Phật nêu gương cho chúng ta thấy, từ ngày
thị hiện khai ngộ, Ngài ba mươi tuổi khai
ngộ, khai ngộ rồi bèn dạy học. Giúp đỡ
đầu tiên là [những người theo Ngài] khi Ngài
đi tham học, cha Ngài rất yêu thương, sai mấy
người theo Ngài, tổng cộng là năm người,
ba người bên nội, hai người kia là họ hàng
bên mẹ, năm người ấy đi cùng Ngài, chăm
sóc Ngài. Năm vị ấy tu hành tại Lộc Dă Uyển.
Ngài khai ngộ bèn độ năm vị ấy đầu
tiên, giúp họ phá mê khai ngộ. Rất khó có! Ngài Kiều Trần
Như nghe đức Phật thuyết pháp, giác ngộ
đầu tiên, chứng quả A La Hán, cũng có thể nói
là Ngài thật sự buông hết thảy chấp
trước đối với thế gian và xuất
thế gian xuống, chẳng c̣n chấp trước
nữa. Buông chấp trước xuống bèn chứng quả
A La Hán, thành Chánh Giác, đối với Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác, Ngài bèn thành Chánh Giác. Đó là thị
hiện cho chúng ta thấy. Ân huệ ấy quá lớn,
nặng hơn ơn cha mẹ. Cha mẹ sanh ra thân thể
này của chúng ta, chẳng có cách nào dạy chúng ta
vượt thoát lục đạo luân hồi, Phật,
Bồ Tát có thể giúp chúng ta vượt thoát lục
đạo, vĩnh viễn chẳng c̣n luân hồi nữa!
Chỉ cần quư vị có thể buông chấp trước
xuống, chẳng c̣n chấp trước hết thảy
các pháp thế gian và xuất thế gian. Thật sự tùy
duyên, thứ ǵ cũng tốt. Trong
cuộc sống hằng ngày, ăn thứ ǵ cũng ngon,
chẳng có chấp trước; mặc th́ thứ ǵ
cũng đều được, chẳng cần phải
kén chọn, tùy duyên sống qua ngày, vĩnh viễn ǵn
giữ cái tâm thanh tịnh của chính ḿnh. Buông
chấp trước xuống, tâm bèn thanh tịnh, chẳng
c̣n bị pháp thế gian nhuốm bẩn. Tự tư
tự lợi, tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ
dục, lục trần, tham, sân, si, mạn đều là
nhiễm ô, những thứ ấy chẳng c̣n nhuốm
bẩn quư vị, tâm đă thanh tịnh rồi.
“Thượng
cúng chư Phật” là nêu gương cho chúng sanh:
Trước tiên dạy đại chúng tu hiếu kính,
học từ chỗ nào? Hiếu thuận cha mẹ, tôn
sư trọng đạo, dạy từ chỗ này.
Đấy là đại căn đại bản của
giáo dục thế gian và xuất thế gian. Người
dẫu làm nhiều chuyện tốt đến mấy, có
cống hiến to lớn đối với xă hội,
nhưng nếu bất hiếu cha mẹ, chẳng kính
trọng thầy, sự tốt lành của kẻ ấy
chẳng có cội rễ, bất luận làm thiện
sự to tát đến mấy, chẳng có cội rễ th́
chẳng phải là chân thiện. Kẻ ấy giáo học,
dạy người khác bất hiếu cha mẹ, bất
kính sư trưởng, trong tương lai họ sẽ
giống như kẻ ấy, dẫu học tốt
đẹp cách mấy, hễ gặp danh cao lợi dầy,
tâm liền biến đổi. V́ sao biến đổi? V́
chẳng có căn cội. Nếu kẻ ấy có căn
cội, sẽ vĩnh viễn chẳng biến. V́ sao?
Kẻ ấy biết nghĩ tới cha mẹ, biết nghĩ
đến thầy, nếu đổi dạ làm chuyện
xấu, lẽ nào chẳng có lỗi với cha mẹ?
Lẽ nào chẳng có lỗi với thầy? Nghĩ tới
điều đó, dục vọng sẽ bị giảm
thấp, từ mê hoặc bèn giác ngộ. Do vậy,
đức Phật dạy chúng sanh đầu tiên là tu cúng
Phật, đó là dạy tu hiếu kính. Tiếp đó là
lợi ích chúng sanh. Thân ngữ ư nghiệp, tức tam
nghiệp của Phật, khởi tâm động niệm,
ngôn ngữ, tạo tác tuyệt đối nghĩ
đến lợi ích chúng sanh. Nghĩ cách lợi ích chúng
sanh, nói lời lợi ích chúng sanh, làm chuyện nhằm
lợi ích chúng sanh, chuyện chẳng có lợi ích cho chúng
sanh tuyệt đối chẳng làm, mà cũng tuyệt
đối chẳng nghĩ tới. Cả một
đời dạy học độ chúng sanh đă
được nói trọn trong ấy. Đây là biểu
hiện nơi mặt Sự.
Tiếp theo đó, nói về Lư.
Dù có những sự tướng ấy, vẫn chẳng có
tướng ra, vào, trước, sau. Tâm Bồ Tát b́nh
đẳng, tức là nói Ngài chẳng có phân biệt,
chẳng có chấp trước, tâm Ngài vĩnh viễn thanh
tịnh, b́nh đẳng. Tốc độ lại vô cùng
nhanh chóng, lẹ làng như chớp. Đó là nói về
sự cảm ứng. Chỉ cần chúng sanh có cảm,
Bồ Tát lập tức có ứng. Trong Phật pháp cũng
có một câu nói, chúng ta phải hiểu rơ, tức là “Phật độ kẻ hữu
duyên”. Kẻ chẳng có duyên với Phật, Phật có
ứng hay không? Phật có ứng. Tuy có ứng, kẻ vô
duyên chẳng thể nhận biết, chẳng đạt
được lợi ích. Đây chính là như trước
kia Chương Gia đại sư đă nói: Kẻ ấy
nghiệp chướng quá nặng, chẳng phải là không
có cảm ứng, mà do nghiệp chướng quá nặng,
chướng ngại kẻ ấy, khiến kẻ ấy
chẳng nhận được sự cảm ứng
của Phật, Bồ Tát. Kẻ nghiệp chướng sâu
nặng rất phiền phức, cầu Phật, Bồ
Tát, nhưng chẳng nhận được sự cảm
ứng của Phật, Bồ Tát; nhưng ma thấy
được, khi ma trông thấy bèn ứng, phù hợp khít
khao, ma đến ứng để làm ǵ? Giúp đỡ
kẻ ấy làm chuyện xấu. V́ thế, có kẻ làm
chuyện xấu, nhưng dường như duyên của
kẻ ấy rất thù thắng, đó là ǵ? Yêu ma quỷ
quái [giở tṛ]. Thiện có thiện cảm ứng, ác có ác
cảm ứng. Có thiện tâm nơi ác th́ Phật, Bồ
Tát chẳng giúp được, nhưng yêu ma quỷ quái
được dịp thuận tiện, chúng ta chớ nên
không biết điều này.
Do Bồ Tát có thể chiếu
pháp hội của chư Phật, đó chính là “phổ chí thập phương,
năng phá chúng sanh ám” (tới khắp mười
phương, có thể phá sự tối tăm của chúng
sanh). Nói chung, Bồ Tát chẳng rời “thân hành, ngôn giáo”,
“học vi nhân sư, hành vi thế phạm” (học làm
thầy người, hạnh làm khuôn mẫu cho
đời), vĩnh viễn nêu gương tốt
đẹp cho đại chúng trong xă hội, đấy là
Phật đạo chân chánh. “Như
điện phá ám” [nghĩa là] giống như ánh chớp
soi tan tối tăm. Tối tăm là mê, Phật quang
chiếu gội, thân hành và ngôn giáo của Phật là quang,
đó là Phật quang. Nếu quư vị có thể thấu
hiểu, minh bạch, giác ngộ, tự nhiên chẳng c̣n mê
hoặc nữa. Mê đă phá, ác chẳng c̣n nữa. Cái nhân ác
chẳng c̣n, quả báo ác cũng không c̣n. Bồ Tát có
thể hóa vô lượng thân ứng hiện trong các cơi
nước nhiều như vi trần, đó là nói thần
thông và đạo lực của Ngài chẳng thể
nghĩ bàn. Trong vi trần có thế giới, đối
với chuyện này, Lượng Tử Lực Học chỉ
thấy vi trần, vẫn chưa phát hiện trong vi
trần có thế giới. Đức Phật nói trong vi
trần có thế giới, ai có thể tiến nhập
thế giới trong vi trần? Kinh nói rất rơ ràng: Phổ
Hiền Bồ Tát. Quư vị thấy phẩm này là
Đức Tuân Phổ Hiền, thần thông của Phổ
Hiền Bồ Tát có thể vào trong thế giới chư
Phật bên trong một vi trần. “Vô hữu trụ xứ”, câu này hàm nghĩa vô cùng
sâu. Đối với những chúng sanh mê hoặc, điên
đảo trong thế gian hiện thời, chúng ta hiểu
điều này rất dễ dàng, trước hết là
phải kiếm một chỗ để ở (trụ xứ),
mong mỏi trụ xứ càng to càng hay, tốt nhất là
sống trong hoàng cung. Quư vị phải biết chư
Phật, Bồ Tát chẳng có trụ xứ, đấy
mới là thông minh! Vô trụ xứ là ǵ? Chẳng có gánh
nặng. Quư vị biết quư vị có một trụ
xứ, quư vị ở trong cái nhà càng to, khổ sở càng
nhiều!
Năm xưa, tôi ở Mỹ,
đi khắp nơi giảng kinh, thường ở trong
nhà các đồng học. Nhà cửa rất to, người
lại rất ít, hai vợ chồng cùng một, hai
đứa con, chẳng có người làm. [Tiền công
trả cho] người làm đắt quá, chẳng thuê
nổi người làm. Ngày Chủ Nhật kiếm
người làm tạm thời, tại Mỹ bèn kiếm
người làm tạm thời, trả tiền công theo
giờ, mỗi giờ phải tốn bao nhiêu tiền,
để họ đến làm giúp cho quư vị mấy
giờ, đáng thương lắm! V́ vậy, thuở
ấy, tôi giảng kinh ở đó, tôi hỏi họ:
“Rốt cuộc là quư vị làm chủ cái nhà, hay cái nhà làm
chủ quư vị?” Bao nhiêu người đă biến thành nô
lệ của nhà cửa, mỗi ngày phải chăm sóc,
dọn dẹp nó, thời gian đều bị lăng phí
hết vào đó. Người Trung Quốc chẳng phải
vậy, người Trung Quốc không làm chuyện ngu
ngốc ấy. Cổ nhân Trung Quốc thích sống ở
đâu? Ở trong lều tranh! Lều tranh đơn
giản, Đông ấm, Hạ mát. Thuở nhỏ, tôi
rời khỏi quê nhà khi gần mười tuổi; nói cách
khác, trước khi lên mười, tôi sống trong lều
tranh. Lều tranh do chính ḿnh dựng, chẳng cần
phải t́m kiếm thứ ǵ, mấy người trong làng
quê là đă cất được. Tường đất,
dùng hai tấm vách dựng, lèn đầy đất vào
giữa. Tường đất rất dầy, Đông
ấm, Hạ mát. Phía trên lợp cỏ tranh, rất
đơn giản, rất thoải mái, nhà nhỏ thôi! Trong
nhà có thêm người th́ dựng thêm một gian bên cạnh,
bớt rất nhiều việc! Khoa học kỹ thuật
đem lại nhiều phiền phức, rườm rà,
khổ sở cho con người, thân tâm bất an! Quư
vị thấy sống trong lều tranh thoải mái lắm,
ngủ rất ấm cúng. Nhà lớn, ngủ chẳng
thoải mái, mỗi ngày phải bận tâm, vọng niệm
rất nhiều, tâm chẳng định được!
Thức ăn càng đơn
giản càng hay, càng khỏe mạnh. Mỗi ngày ăn
lắm món như thế, ăn đến nỗi khắp
thân toàn bệnh, nhất là đồ ăn hiện thời
rất đáng sợ! Tôi thấy một đồng
học Tịnh Tông ở vùng Đông Bắc là cư sĩ
Lưu Tố Vân đă kể với chúng tôi: Bà ta mời
bạn ăn cơm, bạn thân, mời về nhà ăn
cơm, chỉ có một món ăn. Người bạn
ấy nói: “Một món này có đủ ăn hay không?” [Bà ta
đáp]: “Chẳng đủ th́ xào thêm một chút nữa!”
“Vẫn là món này hả?” Đúng vậy! Một món thôi! Bà ta
nói rất rơ ràng, hôm đó, bà ta đăi khách, một món là ǵ?
Giá xào đậu hũ sợi, đúng một món, thật
sự bớt việc! Tôi ở Úc Châu, có một hôm,
hiệu trưởng trường đại học
mời tôi dùng cơm. [Đó là] hiệu trưởng
trường Cách Lư Phỉ Tư (Griffith), rất khó có là ông
ta mời tôi đến nhà dùng cơm. Hai vợ chồng
[đích thân] xuống bếp [làm cơm], chúng tôi là hai
người khách, hai vị chủ nhân, bao nhiêu món ăn? Hai
món! Quư vị nói xem: Đơn giản! Ăn rất
thoải mái. Ông hiệu trưởng đích thân nấu
một món, vợ ông ta nấu một món, thành hai món. Đó
là sống qua ngày. Trong cuộc sống phải đại
tự tại th́ mới tốt, mới thoải mái. Do
vậy, chẳng có trụ xứ.
“Vô
hữu trẫm tích”, nay chúng ta gọi “trẫm tích” (朕跡) là điềm dự báo. Cảm ứng
không có điềm dự báo. V́ sao không có trụ xứ?
Khắp pháp giới hư không giới chính là trụ xứ
của Ngài, Ngài chẳng trụ một chỗ nào, mà là
trụ khắp pháp giới hư không giới. Nơi nào có
cảm, bèn ứng nơi đó. Quư vị thấy Ngài
tự tại lắm! Ngài có trụ xứ, sẽ chẳng
đại tự tại như thế. Không có điềm
báo là ư nói “đến rất nhanh”. V́ thế, tiếp đó
là nói tỷ dụ, như chớp xẹt giữa không trung,
chẳng từ đâu đến, mà cũng chẳng đi
về đâu! Hôm nay đă hết thời gian, chúng ta
học tới đây, ngày mai vẫn giảng kể từ
câu này.
Tập
116
Chư vị pháp sư, chư
vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin
xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải,
trang một trăm ba mươi sáu, ḍng thứ nhất, xem
từ câu thứ hai: “Bồ Tát
năng hóa”, xem từ chỗ này!
“Bồ
Tát năng hóa vô lượng thân ứng hiện vi trần
sát, vô hữu trụ xứ, vô hữu trẫm tích, như
điện kích không trung, vô sở tùng lai, khứ vô
định tích. Bồ Tát b́nh đẳng, vô hữu tiên
thử, hậu bỉ đẳng phân biệt tâm, như
điện quang chiếu vật, vô bỉ, thử, tiên,
hậu phân biệt” (Bồ Tát có thể hóa vô
lượng thân, ứng hiện trong các cơi nước
nhiều như vi trần, chẳng có trụ xứ,
chẳng có dấu vết, giống như chớp lóe giữa
không trung, chẳng từ đâu đến, chẳng có
dấu vết nhất định sẽ đi về
đâu. Bồ Tát b́nh đẳng, chẳng có tâm phân biệt
“cái này trước, cái kia sau” v.v…, giống như ánh
chớp soi các vật, chẳng phân biệt cái này
trước, cái kia sau). Đây là ư nghĩa trong Hội
Sớ, ư nói các vị Bồ Tát tham dự pháp hội Vô
Lượng Thọ lần này của đức Thế
Tôn, số lượng vô lượng vô biên, đều là
Pháp Thân đại sĩ. Trí huệ, thần thông, và
đạo lực của những vị ấy b́nh
đẳng với chư Phật Như Lai, trong hội Hoa
Nghiêm, chúng ta đă thấy [điều ấy]. Chỉ là
tập khí vô thỉ vô minh c̣n chưa đoạn sạch,
nhưng trí huệ, thần thông, và đạo lực
giống như chư Phật Như Lai. V́ thế, các Ngài
có năng lực hóa thân, hóa bao nhiêu thân? Vô lượng vô
số vô tận thân tướng, ứng hiện trong vi
trần sát độ. Câu nói này khiến cho chúng ta thật
sự thấu hiểu những người ấy, tức
là những người trong cơi Thường Tịch Quang và
cơi Thật Báo, năng lực cảm ứng quả thật
chẳng thể nghĩ bàn, thật đấy, chẳng
giả đâu! Chúng sanh trong các cơi nhiều như vi trần
có cảm, các Ngài đều có thể ứng. Cũng
rất có thể là thế giới của chúng ta trong
hiện thời chính là một cơi nước nằm trong
một hạt vi trần, bọn phàm phu chúng ta chẳng
biết chân tướng rốt ráo. Hơn nữa, cơi
nước đúng như cổ đại đức Trung
Quốc đă nói: “Lớn
chẳng ra ngoài”, nh́n từ chỗ lớn, hiện
thời gọi là “thế giới vĩ mô”, [sẽ
thấy] thế giới chẳng có ngằn mé, chẳng có
ranh giới, vô cùng lớn. Nh́n từ chỗ nhỏ, nh́n vào
vi trần, trong một mảy vi trần có cơi nước,
trong cơi nước ấy lại có vi trần, trong vi
trần lại có cơi nước. “Cái nhỏ chẳng ở trong”, chẳng t́m được [cái nào rốt cuộc
ở] bên trong. Lớn là vô
lượng vô biên, nhỏ là vô cùng vô tận, đó là ǵ?
Đấy là tự tánh, tự tánh chẳng thể nghĩ
bàn!
Như Lai và các vị
đại sĩ đă chứng đắc tâm tánh viên măn,
đă minh tâm kiến tánh. Sau khi đă kiến tánh, chúng ta
hỏi các Ngài có trụ xứ hay không? Chẳng có! Nếu
nói thật với quư vị về trụ xứ th́ chỗ
nào cũng đều là Thường Tịch Quang, cho nên
chẳng có trụ xứ! Nơi nơi đều là cơi
Thật Báo, cơi Thật Báo chẳng có nơi chốn
nhất định. Chúng sanh trong mười pháp giới có
trụ xứ, các trụ xứ ấy do đâu mà có? Chúng ta
hiểu: Từ trong ư niệm sanh ra huyễn tướng và
cảm nhận sai lầm, đấy mới là chân
tướng sự thật. Không có trụ xứ, nhưng
chính ḿnh chấp trước có trụ xứ, không có nơi
chốn mà chấp trước có nơi chốn. Các
đại sĩ thảy đều buông vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước xuống, nên
trong kinh Bát Nhă, đức Phật đă nói: “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm” (hăy nên
chẳng trụ vào đâu để sanh tâm). “Vô hữu trụ xứ” chính
là “vô sở trụ xứ”.
Thích Ca Mâu Ni Phật đă kiến tánh rồi, trụ “vô sở trụ”. “Vô hữu
trẫm tích”, “trẫm tích”
(朕跡) chính là điềm báo trước. Ngài
đến chẳng có dấu hiệu báo trước, Ngài
rời khỏi cũng chẳng có dấu hiệu báo
trước. Không từ đâu đến, mà cũng
chẳng đi về đâu, chẳng có dấu vết ǵ!
Ở đây, nêu lên một thí dụ: “Như điện kích không trung” (như chớp
lóe trong không trung). Tia chớp: Trời đổ mưa,
chúng ta thấy tia chớp, tia chớp do đâu mà có? Trong
một sát-na, ánh sáng ấy chẳng c̣n nữa, nó
đến nơi đâu? Chẳng từ chỗ nào
đến, mà đi cũng chẳng có tung tích. Bồ Tát
ứng hóa trong đại thiên thế giới, ứng hóa
trong mười pháp giới, giống như chớp lóe
trong không trung, hiện tượng này xuất hiện trong
sát-na. Nói thật ra, ứng thân của Phật, Bồ Tát là
như thế. Thân của chúng ta trong mười pháp
giới hoặc trong lục đạo chúng sanh
được là “nghiệp báo thân”, các Ngài chẳng có, các
Ngài là “hễ chúng sanh có cảm, bèn tự nhiên ứng
hiện”, cảm ứng đạo giao trọn chẳng sái
thời. Cảm lúc nào bèn ứng lúc đó, chẳng bỏ
lỡ lần nào! Chẳng có mảy may bỏ lỡ.
Chúng sanh trong lục đạo
hay trong mười pháp giới bị nghiệp lực lôi
dắt. Tâm quư vị ô nhiễm, chẳng thanh tịnh,
quyết định sanh trong lục đạo luân hồi.
Tâm địa thanh tịnh, tịnh mà chẳng nhiễm,
chắc chắn là quư vị sanh trong bốn thánh pháp
giới. Bốn thánh pháp giới là Tịnh Độ
của Thích Ca Mâu Ni Phật, lục đạo là uế
độ Thích Ca Mâu Ni Phật; đó là nói về thế
giới Sa Bà. Trong uế độ là lục đạo, có
thiện, có ác. Thiện tâm, thiện hạnh sanh trong tam
thiện đạo. Nói thông thường, thiên đạo,
A Tu La đạo và nhân đạo được gọi là
“tam thiện đạo”.
Trên thực tế, đức Phật đă nói về A Tu
La rất rơ ràng. Ngoại trừ địa ngục không có
A Tu La, bốn đường khác đều có A Tu La. Thiên
có A Tu La, ba đường kia: Nhân đạo có A Tu La, súc
sanh có A Tu La, quỷ có A Tu La. Trong lục đạo,
bốn đạo ấy đều có A Tu La, chỉ có
địa ngục là không có. Thiên A Tu La được coi
như thiện đạo, ngoài ra, nhân gian A Tu La, súc sanh A Tu
La, ngạ quỷ A Tu La đều chẳng thể xem là
thiện đạo, chỉ có Thiên A Tu La được
kể là thiện đạo. Đối với tam
thiện đạo và tam ác đạo, tâm hạnh bất
thiện cảm ứng tam ác đạo, tâm hạnh
thiện cảm ứng tam thiện đạo. Tiêu
chuẩn thiện - ác là kinh Thập Thiện Nghiệp
Đạo do đức Phật đă giảng, đó là
tiêu chuẩn. V́ thế, đức Phật khuyên chúng sanh
“chẳng thể không tu thiện”, không tu thiện th́
đời sau sẽ vào tam đồ, tam đồ quá
khổ!
Tuy Bồ Tát ứng hóa trong
mười pháp giới, đặc biệt là trong lục
đạo, chúng ta đang ở trong lục đạo, tâm
Bồ Tát b́nh đẳng, thanh tịnh. Tuy Bồ Tát có
ứng, nhưng Ngài trước nay chẳng khởi tâm
động niệm. V́ thế nói: “Vô hữu tiên thử hậu bỉ đẳng phân
biệt tâm” (cho nên chẳng có tâm phân biệt như cái
này trước, cái kia sau v.v…). Ngài giống như mặt
trời chiếu khắp đại địa, chẳng có
phân biệt, thứ ǵ cũng chiếu tới. Chúng ta có
nghiệp chướng, tuy mặt trời rạng rỡ cũng
chiếu chẳng thấu, nghiệp chướng ǵ vậy?
Quư vị trốn trong pḥng, mặt trời chẳng soi
thấu. Quư vị ra cửa che dù, mặt trời cũng
chẳng chiếu tới quư vị. Đó là chính quư vị
có nghiệp chướng, bị chướng ngại,
chẳng phải là mặt trời không chiếu quư vị,
mà là quư vị chẳng muốn nó chiếu thấu.
Phật, Bồ Tát thị hiện trong mười pháp
giới giống như thế đó, chiếu khắp
hết thảy chúng sanh, “như
điện quang chiếu vật, vô bỉ thử tiên
hậu phân biệt” (giống như ánh chớp soi
vật, chẳng có kia, đây, trước, sau phân
biệt). V́ sao? Ngài đă chứng đắc “vạn
sự vạn vật trong khắp pháp giới hư không
giới và chính ḿnh là một Thể”. Một Thể
đương nhiên chẳng có phân biệt “đây - kia,
trước - sau”, một Thể mà! Đối với
cảnh giới này, người học Phật chúng ta
phải phát tâm, các Ngài đă chứng đắc, chúng ta
cũng phải nên chứng đắc, đó mới là
đúng!
Tiếp theo đó có chú giải.
Hoàng lăo cư sĩ chú giải: “Thượng
vân Bồ Tát nhất niệm” (nhất niệm của
Bồ Tát như vừa nói trên đây), điều
được nói trong phần trước. “Thượng vân” (上云) là trong
phần trước đă nói, một niệm của
Bồ Tát “phổ chí thập
phương”, tức là khắp pháp giới hư không
giới, một niệm trọn khắp pháp giới. “Cố kỳ thần tốc,
siêu quá quang tốc vô lượng ức bội” (cho nên
nó thần tốc, vượt trỗi tốc độ
của ánh sáng vô lượng ức lần), chắc
chắn không phải là tốc độ ánh sáng hoặc
tốc độ của tia chớp có thể sánh bằng.
Điều này giống như điều thứ nhất
trong phần “thị tam
biến” (chỉ bày ba thứ trọn khắp) trong
Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán, một niệm vừa mới
động bèn trọn khắp pháp giới. Ư nghĩa “trọn khắp pháp giới”
tương ứng với những điều kinh điển
đă nói, vô lượng vô biên thế giới, cho
đến vi trần sát độ, nhà Phật
thường nói là “mười
phương sát độ, vi trần pháp giới”.
Mười phương cơi nước là thế giới
vĩ mô, vi trần pháp giới là thế giới vi mô.
Một niệm tới khắp, thảy đều
đạt đến. Đó là nói về chuyện “hóa hiện thân ḿnh giống
như ánh chớp”. Kinh Kim Cang nói “vô trụ sanh tâm”. Do câu này, Lục Tổ Huệ
Năng đại sư đại triệt đại
ngộ, “hăy nên không trụ vào
đâu mà sanh tâm”.
Hai câu kế tiếp [trong chánh
kinh] là ĺa khỏi sự trói buộc của kiến
giải: “Liệt ma kiến
vơng, giải chư triền phược” (xé rách
lưới ma kiến, tháo gỡ các trói buộc), “triền” là chữ triền
trong triền nhiễu (纏繞: quấn trói). “Liệt giả, phá dă” (Liệt là phá). Lời Chú
Giải cho biết Liệt (裂) là phá. “Ma
giả, Trí Độ Luận viết: Đoạt huệ
mạng, hoại đạo pháp công đức thiện
bổn, thị cố danh vi Ma” (Trí Độ Luận
giảng Ma là “đoạt huệ mạng, phá hoại
cội gốc lành của đạo pháp và công đức,
nên gọi là Ma”). Trên thực tế, Ma có nghĩa là “chiết ma” (折磨: vùi
dập). Con người bị vùi dập, đau
đớn chẳng thể chịu nổi. Lương
Vũ Đế cảm thấy vùi dập c̣n đáng sợ
hơn quỷ, nên đối với chữ Ma (磨), phía
dưới chữ Ma vốn là chữ Thạch (石), bỏ
chữ Thạch, đổi thành chữ Quỷ (鬼), [ngụ ư sự
vùi dập] giống như ma quỷ. Chữ này do
Lương Vơ Đế sáng chế. Trong cổ tự Trung
Quốc chẳng có, [trước thời Lương Vơ
Đế] không có chữ này. V́ thế, quư vị
đọc những sách vở xưa, trong ấy vẫn
dùng chữ Ma (磨) trong Chiết Ma (折磨), hăy nên biết hai chữ [磨 và 魔] có ư nghĩa giống
nhau. Nó chướng ngại Pháp Thân huệ mạng, phá
hoại đạo pháp của chúng ta, phá hoại đạo
đă học, pháp đă tu, công đức thiện bổn mà
chúng ta đă tu. Thiện bổn là ǵ? Thiện bổn là
Thập Thiện. Tất cả hết thảy thiện
pháp đều xuất sanh từ Thập Thiện. Thập
Thiện giống như cội rễ, nên gọi là “thiện căn”, “thiện bổn” và “thiện căn” có cùng một
ư nghĩa. Nó phá hoại thiện căn và công đức
của quư vị, công đức là Định Huệ.
Những thứ ấy gọi là Ma, phạm vi ư nghĩa
của chữ Ma vô cùng rộng răi.
“Kiến” (見) chỉ điều ǵ? Tiếp theo đó, sách
viết: “Chỉ tư lự”
(chỉ các thứ suy nghĩ). V́ vậy, chữ Kiến này
hiểu theo nghĩa rộng, chẳng phải là nghĩa
hẹp. Hiểu theo nghĩa hẹp th́ [Kiến] là chúng ta
mắt thấy, tai nghe. Dùng một chữ Kiến theo
nghĩa rộng để đại diện toàn bộ,
sáu căn khởi tác dụng đều dùng một chữ
Kiến. Người Trung Quốc chuộng đơn
giản, chẳng ưa phiền phức, nên trong chữ Kiến bao gồm cả tư
lự, [tức là] tư tưởng, sự t́m ṭi nghĩa
lư, nghiên cứu, và sự quyết định của chúng
ta. Những điều này đều có thể dùng chữ
Kiến để tượng trưng. “Kiến” có ư nghĩa rất rộng, bao gồm
tà, chánh, có chánh kiến, tà kiến. Chánh kiến bèn gọi
là Phật, Bồ Tát; tà kiến là ma kiến. Dùng cách nói
[trong sách Chú Giải] ở đây, chánh kiến là thành
tựu huệ mạng, đạo pháp, công đức,
thiện bổn của chúng ta. Đó là chánh tri chánh
kiến. Nếu nói tới ma kiến th́ ma kiến là tà
kiến, nó phá hoại huệ mạng, đạo pháp, công
đức, thiện bổn của chúng ta, đó chính là ma.
Chỉ Quán: Quyển thứ năm trong bộ Ma Ha Chỉ
Quán của tông Thiên Thai có một đoạn văn như
sau: “Nhất thiết phàm phu,
vị giai thánh đạo, giới nhĩ khởi kế,
tất giai thị Kiến” (hết thảy phàm phu
chưa đạt đến địa vị thánh
đạo, một niệm nhỏ nhoi vừa dấy lên bèn
đều là Kiến). Chúng ta đọc câu tiếp đó: “Hựu Đại Thừa
Nghĩa Chương đệ ngũ quyển thuyết:
Thôi cầu thuyết chi vi Kiến” (lại nữa,
Đại Thừa Nghĩa Chương, quyển thứ
năm nói: “T́m ṭi nghĩa lư bèn gọi là Kiến”). Do
vậy, nó bao gồm tư lự, quyết định, bao
gồm những ư nghĩa ấy. “Thử thượng thị quảng nghĩa, phàm
hữu tư lự, kế giảo, phân biệt, thôi
cầu” (trên đây là nghĩa rộng, hễ có suy tính,
so đo, phân biệt, t́m ṭi nghĩa lư), “kế giảo” (計較) là chấp trước, “tư lự” (思慮) là vọng tưởng, nay chúng ta
gọi “thôi cầu” (推求) là nghiên
cứu, thuộc loại ấy. “Đẳng
đẳng” (vân vân) đều gọi là Kiến, “tất danh vi Kiến”
(đều gọi là Kiến).
“Hựu
Chỉ Quán thập viết: Tác quyết định
giải, danh chi vi Kiến” (Lại nữa, sách Chỉ
Quán quyển mười nói: “Tạo sự hiểu biết
quyết định th́ gọi là Kiến”), ư nghĩa này khá
hẹp. Trong phần trên là nghĩa rộng, ở đây là
nghĩa hẹp. “Duy chỉ
cụ quyết định tánh chi tri giải” (chỉ là
nói về sự hiểu biết có tánh chất quyết
định). Cũng có thể nói theo kiểu người
Trung Quốc là “thành kiến”.
Người nào đó có thành kiến rất sâu, chấp
trước kiến giải của chính ḿnh là chánh xác.
Như phàm nhân hiện thời chấp trước “tôn giáo
là mê tín”, tôn giáo có phải là mê tín hay không? Kẻ ấy nói
chính hắn có nghiên cứu, tôn giáo xác thực là mê tín;
nhưng cũng có những người bảo “tôn giáo
tuyệt đối không phải mê tín, tôn giáo là trí huệ”.
Quư vị thấy đó, chấp trước của hai
loại người ấy chắc chắn khác nhau, v́ sao?
Trong ấy có tà và chánh. Có người quyết định
là chánh xác, có người quyết định là chẳng
chánh xác. Chẳng chánh xác mà ngỡ là chánh xác, đó gọi
là “thành kiến”. Đức Phật dạy chúng ta phải
nên buông xuống. Quư vị thấy ở đây nói: “Kiến hữu tà chánh”, có tà
kiến, có chánh kiến, có hữu kiến, có vô kiến, có
đoạn kiến, có thường kiến, những
thứ này đều gọi là tà kiến. Ư nghĩa này sâu
lắm, chỉ cần quư vị có kiến giải th́
đều gọi là tà kiến, v́ sao? Trong tâm tự tánh
thanh tịnh chẳng có kiến, chẳng có tà, chánh, mà
cũng chẳng có hữu, vô, mà cũng chẳng có
đoạn, thường. Trong tự tánh thanh tịnh tâm,
Kiến ǵ cũng không có, đấy mới là chánh tri chánh
kiến. Tâm chư Phật Như Lai vĩnh viễn “thanh tịnh, b́nh đẳng,
giác”, chỉ cần có niệm khởi lên sẽ
chẳng giác, chẳng thanh tịnh, chẳng b́nh
đẳng. Ư nghĩa này rất sâu, nhưng là thật,
chẳng giả! “Ma kiến vơng giả, tà kiến
sâm si giao lạc, linh nhân nan ư thoát ly, thí như la vơng”
(“Lưới ma kiến”: Tà kiến rối bời giao xen,
khiến cho con người khó thoát ĺa, ví như lưới
rập); do vậy, kinh Phật thường dùng chữ “tà kiến vơng”. “Ma kiến vơng” chính là
lưới tà kiến. Kinh Hoa Nghiêm giảng: “Ngă mạn khái quán, kiến vơng
tăng trưởng” (ngă mạn tưới tắm,
lưới kiến giải tăng trưởng), thành
kiến từ đâu sanh ra? Trong năm thứ Kiến
Hoặc, Kiến Thủ Kiến và Giới Thủ Kiến
đều là Thành Kiến như người Trung Quốc đă
nói. Giới Thủ Kiến là nói theo nhân, Kiến Thủ
Kiến là nói theo quả, đều là chấp
trước, chấp trước kiên cố, cho chính ḿnh là
đúng, người khác là trật. Cội nguồn ở
chỗ nào? Cội nguồn ở chỗ ngạo mạn.
Tâm sân khuể được bao gồm trong ấy. Kiêu
căng, ngă mạn, cuồng vọng tự đại.
Ngược lại là cung kính, hư tâm (tâm rỗng rang) th́
sẽ chẳng có những khuyết điểm ấy. Hễ
tự cho ḿnh là đúng, chắc chắn đọa trong
lưới tà kiến, chẳng sanh trí huệ, sẽ sanh
phiền năo. Như trong phần kế tiếp, Trí Độ
Luận quyển thứ mười một có nói: “Thị nhân tà kiến vơng,
phiền năo phá chánh trí” (người ấy vướng
trong lưới tà kiến, phiền năo phá chánh trí).
Lưới ma kiến là lưới tà kiến, trí huệ
chẳng c̣n nữa, trí huệ biến chất, biến
thành phiền năo. Thật ra, chánh trí là Bát Nhă, đức
năng và tướng hảo trọn chẳng bị
mất đi, chỉ là biến chất, v́ trong tâm quư
vị có Tam Độc. Tham, sân, si là Tam Độc, có lúc đức
Phật giảng năm điều, gọi là Ngũ
Độc, tức là tham, sân, si, kể thêm ngạo mạn
và nghi hoặc, nên gọi là tham, sân, si, mạn, nghi, Ngũ
Độc. Ngũ Độc tấn công cái tâm, quư vị có
thể nào chẳng mê hoặc ư? Chánh trí của quư
vị chẳng thấy đâu nữa, phiền năo dấy
lên. Đức Phật dạy con người tu hành là tu ǵ
vậy? Tu từ nơi đâu? Hăy bắt tay tu từ
chỗ này, buông Tam Độc, Ngũ Độc xuống.
Có thể buông xuống hay không? Có thể chứ! V́ sao? Chúng
chẳng phải là thật. Trong chân tánh không có những
thứ ấy; trong chân tánh có Giới, Định, trí
huệ.
Cổ thánh tiên hiền Trung Quốc bảo: Trong chân
tánh có Ngũ Luân, Ngũ Thường, Tứ Duy, Bát
Đức, tự tánh vốn sẵn có [những thứ
ấy]. Dùng một chữ để đại diện
những thứ ấy, tức là dùng một chữ
để đại diện Ngũ Luân, Ngũ
Thường, Tứ Duy, Bát Đức, chữ đó là
“Thiện”, bổn tánh vốn thiện. Thiện là ǵ?
Ngũ Luân là thiện, Ngũ Thường là thiện,
Tứ Duy là thiện, Bát Đức là thiện. “Nhân chi sơ, tánh bổn
thiện” (con người thoạt đầu, tánh
vốn lành), trong chữ Thiện ấy là bốn khoa
mục lớn (Ngũ Luân, Ngũ Thường, Tứ Duy,
Bát Đức). Ngũ Luân là nói tới quan hệ, quan
hệ giữa người và người, quan hệ
giữa con người và hoàn cảnh tự nhiên, quan
hệ giữa con người và núi, sông, đại
địa, hiện thời nói đến quan hệ
giữa con người và địa cầu, quan hệ
giữa con người và vũ trụ. Nói tới các
mối quan hệ bèn gọi là luân lư. Phật pháp giảng
[luân lư] hoàn bị nhất, thánh nhân Trung Quốc cũng
rất lỗi lạc, nghiễm nhiên cũng nói: “Thiên địa dữ ngă
đồng căn, vạn vật dữ ngă nhất Thể”
(trời đất và ta cùng một căn cội, vạn
vật và ta cùng một Thể). Điều ấy chẳng
khác những ǵ được nói trong sách Vọng Tận
Hoàn Nguyên Quán. Phật pháp giảng rơ ràng, minh bạch, c̣n
trong sách vở của cổ Trung Quốc chỉ có mấy
câu, lược tả phớt qua mà thôi, chúng ta chớ nên
không biết. Kinh thường nói chuyện này “chỉ có Phật và Phật
mới có thể thông hiểu rốt ráo”. Khi nào quư
vị buông vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước xuống, đă thành Phật, bèn thấu
hiểu triệt để chân tướng sự thật
này, thấu hiểu triệt để rốt ráo, đúng
là do một tự tánh biến hiện. Trong kinh Đại
Thừa thường nói: “Ngoài
pháp chẳng có tâm”, “pháp”
là Pháp Tướng, Pháp Tướng toàn là do tâm hiện, nên
ngoài pháp chẳng có tâm. “Ngoài tâm
chẳng có pháp”, tất cả hết thảy các pháp đều
sanh từ tâm tưởng, rời khỏi tâm tưởng
sẽ chẳng có một pháp nào để đạt
được. Pháp Tánh và Pháp Tướng là một, không
hai, có quan hệ là cùng một loại. Sau khi đă hiểu
rơ mối quan hệ ấy, trong cuộc sống hằng
ngày, chúng ta xử lư mối quan hệ ấy sao cho tốt
đẹp. Đó là Đức.
Người Hoa nói tới
Ngũ Thường, “phụ
tử hữu thân, phu phụ hữu biệt, quân thần
hữu nghĩa, trưởng ấu hữu tự, bằng
hữu hữu tín” (cha con có t́nh thân ái, vợ chồng có
trách nhiệm khác biệt, vua tôi có nghĩa, già trẻ có tôn
ty trật tự, bạn bè giữ chữ tín), đấy
là nói tới luân lư, phát triển đến cuối cùng,
trong bốn biển đều là anh em. Sự phát triển
này nói rơ điều ǵ? Nói rơ toàn thể nhân loại là
người một nhà. Trong tôn giáo của ngoại quốc
có nói con người do đâu mà có? Thủy tổ nguyên
thủy của nhân loại là do Chúa tạo ra, Á
Đương (Adam) và Hạ Oa (Eve)[2] là
tổ tiên của nhân loại. [Theo họ], toàn bộ nhân
loại trên thế giới đều là hậu duệ
của Á Đương và Hạ Oa, đều là con cháu
của họ, là người một nhà, nói rất hay. Á
Đương và Hạ Oa do đâu mà có? Do Chúa tạo. V́
vậy, Chúa mới là cội nguồn thật sự
của nhân loại, do Ngài tạo ra. Đây là cách nói trong tôn
giáo. Nói theo Phật pháp, tự tánh là vốn có, chẳng
phải do bất cứ kẻ nào sáng tạo, mà là vốn
sẵn có. Bổn tánh vốn sẵn có, bổn tánh vốn
lành, vốn là sẵn có. Vũ trụ, sanh mạng, vạn
vật h́nh thành như thế nào? Kinh Phật dạy: “Một niệm bất giác bèn có
vô minh”, vô minh là ba tế tướng của A Lại Da,
A Lại Da sanh ra hết thảy vạn vật. A Lại Da
là ǵ? A Lại Da là vọng tâm. Trong kinh luận của Pháp
Tướng Duy Thức, đức Phật bảo A
Lại Da nửa chân, nửa vọng. Thể của nó là
Chân, là chân tánh, nửa kia là vọng. Vọng tức là nó
vọng động, nhất niệm bất giác nó bèn
động, động rồi bèn dấy lên một
niệm. Niệm ấy do lư do ǵ mà khởi? Chẳng có lư
do, khi nào khởi? Chẳng có khi nào. Khởi ở đâu?
Chẳng có nơi chốn. Nó vừa động, vọng
tâm bèn hiện tiền. Chân tâm có thể hiện, có thể
sanh, vọng tâm có thể biến, biến thành y báo và chánh
báo trang nghiêm trong mười pháp giới là do vọng tâm.
Hiện thời các nhà khoa học gọi vọng tâm là “ư
niệm”. Trong tâm chúng ta khởi niệm, niệm ấy có
thể biến, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp
giới là cái được biến, kinh Phật giảng
nguyên khởi của vũ trụ là như thế. Chúng ta
đọc nhiều, học tập nhiều, sau đấy
sẽ thông suốt những điều được nói
ở đây, cách nói này rất hợp lư. Họ nói là “Chúa
tạo”, trong Phật pháp, Chúa là ai? Chúa chính là A Lại Da; v́
thế, A Lại Da c̣n gọi là “thần thức”, đó là
danh xưng trong kinh Phật, nó tạo ra vạn vật. V́
vậy, nói “vạn vật do Chúa tạo”, người
học Phật chúng ta thừa nhận, [v́ Chúa tạo
tức là] thần thức tạo, năng lượng
của thần thức chẳng thể nghĩ bàn.
Chúng ta phải phản vọng
quy chân (bỏ vọng về với chân), thánh nhân Trung
Quốc nói hay lắm: “Khắc
niệm tác thánh” (khắc chế ư niệm bèn trở
thành thánh). “Niệm” là
vọng niệm, [“khắc
niệm tác thánh” nghĩa là] quư vị có thể khắc
phục vọng niệm bèn là thánh nhân. Phàm phu bị
vọng niệm chuyển, khổ chẳng thể nói
nổi. Thánh nhân có thể khắc phục vọng niệm,
vọng niệm chẳng c̣n nữa, chánh niệm hiện
tiền, đó là thánh nhân. Vọng niệm là phiền năo,
chánh niệm là trí huệ, danh từ trong nhà Phật [gọi
chánh niệm] là Bồ Đề. Chuyển vọng thành Chân
chính là “học Phật”.
Phương pháp cụ thể để khắc phục
chính là buông dục vọng xuống, dục vọng
chẳng thật. Trong Phật pháp thường nói tới
Ngũ Dục, Lục Trần. Ngũ Dục là tài, sắc,
danh vọng, ăn uống, ngủ nghê, người trong
thế gian ưa thích năm thứ ấy, tài, sắc, danh
vọng, ăn uống, ngủ nghê, nhưng trong kinh
Phật nói năm thứ ấy là ǵ? Là năm cội
rễ của địa ngục! Trong đời
người, chẳng thể thiếu khuyết năm
thứ ấy, quư vị chẳng có cách nào ĺa khỏi chúng.
Đức Phật dạy chúng ta, đối với năm
chuyện ấy, vừa phải bèn thôi! “Vừa phải bèn
thôi” là ǵ? Trong cuộc sống hằng ngày, sử dụng
nó, đừng khởi tâm tham, đừng sanh sân khuể.
Nếu ưa thích nó, hăy đừng tham luyến. Nếu
chán ghét nó, đừng cáu kỉnh. Đó gọi là “vừa
phải bèn thôi”. Hiểu rơ nó, chẳng mê hoặc tí nào,
đó là chẳng si. Thái độ của chính ḿnh là bất
luận trong cuộc sống, đăi người, tiếp
vật đều phải khiêm hư, phải cung kính con
người lẫn sự vật, chẳng ngạo
mạn, tin sâu xa, chẳng nghi ngờ giáo huấn của
cổ thánh tiên hiền. Quư vị thấy tham, sân, si,
mạn, nghi chẳng c̣n nữa, như vậy là quư vị
sống cuộc đời b́nh thường, đúng
mực, sống cuộc đời hạnh phúc mỹ măn.
Thuở trước, giáo sư
Phương Đông Mỹ dạy tôi Phật giáo, bảo
tôi: “Học Phật là
hưởng thụ cao nhất trong cuộc đời”.
Hưởng thụ cao nhất là trong cuộc sống
hằng ngày chẳng có tham, sân, si, mạn, nghi, đó chính là
hưởng thụ cao nhất. Nếu có thể khắc
chế ngũ dục, lục trần, cũng là nói “vừa
phải bèn thôi”, có một chút ít bèn thỏa măn, đó là
hưởng thụ cao nhất trong cuộc đời. Nếu
tham lam chẳng chán, oán hận chẳng bỏ, cuộc
sống của kẻ ấy rất bi ai, mà cũng rất
đáng thương, khổ chẳng thể nói nổi!
Sống đúng bổn phận, như Thích Ca Mâu Ni Phật
đă biểu diễn cho chúng ta thấy, mỗi ngày chỉ
cần có thể ăn no, mặc đủ ấm, có
chỗ để che mưa tránh gió, đủ rồi!
Biết đủ, thường vui! Chẳng cần
phải tính toán, mong cầu. Tính toán, mong cầu sẽ
khổ sở khôn kể xiết, nhất định
phải sống trong thế gian này sao cho thân tâm của chính
ḿnh chẳng bị áp lực, người hiện thời
nói là “không có stress”, thong dong, thoải mái, cuộc sống
ấy tốt đẹp lắm, cuộc sống ấy
mỹ măn lắm! Chớ nên tự
chuốc lấy khổ, mỗi ngày trong ḷng lo âu, toan tính,
bận tâm khôn xiết, đó là tự chuốc
khổ! Đă giác ngộ, hăy buông triệt để
những thứ vàn muôn đầu mối ấy xuống,
chẳng phải là không có chuyện ǵ ư? Buông xuống
bèn thành Phật, thành Phật bèn chẳng có chuyện ǵ
nữa! Sau khi thành Phật, giáo hóa chúng sanh, tự tại
lắm! Giáo hóa chúng sanh, quư vị thấy “vô trụ sanh tâm” có thể hiện vô lượng
vô biên thân, chẳng chấp tướng, chẳng khởi
tâm động niệm, phân biệt, chấp trước,
có thể hiện hết thảy tướng. Hiện
tướng giáo học, v́ chúng sanh thị hiện các
thứ mà vẫn chẳng có vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước, đấy mới là cao minh,
cao minh đến tột bậc, đấy mới là pháp
hỷ, đấy mới là Cực Lạc. V́ thế,
đối với Cực Lạc, một niệm giác quư
vị bèn chứng đắc Cực Lạc, một
niệm mê sẽ khổ khôn kể xiết! Phật, Bồ Tát giáo hóa hết
thảy chúng sanh chẳng có chi khác, không ǵ chẳng nhằm
dạy họ phá mê khai ngộ, ĺa khổ được
vui. Ĺa là buông xuống, bỏ đi, cội nguồn
của khổ là tham, sân, si, mạn, nghi, quư vị dẹp
trừ những thứ ấy, chúng nó chẳng phải là
những thứ tốt đẹp.
Tiếp đó, lăo cư sĩ
dùng một câu trong Trí Độ Luận để làm
chứng: “Hữu niệm
đọa ma vơng, vô niệm tắc đắc xuất”
(hữu niệm đọa lưới ma, vô niệm bèn ra
khỏi). Ai không có ư niệm? Có tà niệm bèn đọa
lưới ma, lục đạo luân hồi là tà niệm.
Có chánh niệm, thiện niệm bèn sanh trong tam thiện
đạo, ác niệm sanh trong tam ác đạo, đều
chẳng thoát khỏi luân hồi. V́ thế nói thiện
niệm hay ác niệm đều là tà niệm, quư vị
chẳng thoát khỏi lục đạo luân hồi. Tốt
đẹp hơn một bậc là quư vị có tịnh
niệm, có chánh niệm, vượt thoát luân hồi, sanh
trong bốn thánh pháp giới, Phật, Bồ Tát vẫn nói
đó là tà niệm, hễ có niệm bèn đọa trong lưới
ma. V́ sao? Quư vị có niệm! Quư vị có Phật niệm,
có Bồ Tát niệm, vẫn đọa trong lưới ma.
Lưới ma là ǵ? Bốn thánh pháp giới, Thanh Văn,
Duyên Giác, Bồ Tát, Phật, tức là Phật trong
mười pháp giới, chưa ra khỏi mười pháp
giới. Lục đạo là lưới ma nhỏ, bốn
thánh pháp giới là lưới ma to. Đă thoát khỏi
lưới ma nhỏ, nhưng chưa thoát khỏi
lưới ma to. Làm cách nào đây? Vô niệm. Vô niệm bèn
thoát khỏi! Tôi lại thật thà thưa cùng quư vị, quư
vị vô niệm cũng chẳng thoát được, v́
sao? V́ quư vị có vô niệm, vẫn là có niệm, nên quư
vị chẳng thoát ra được. Vô niệm là ǵ?
Hữu niệm lẫn vô niệm thảy đều không có
th́ mới có thể thoát ra. Nếu có vô niệm là hỏng
rồi. Bởi lẽ đó, Thích Ca Mâu Ni Phật giảng
kinh thuyết pháp bốn mươi chín năm, nhưng Ngài
thường phủ nhận: “Ta chẳng giảng kinh. Quư
vị nói ta giảng kinh th́ chính là báng Phật!” V́ sao?
Chẳng chấp thuận quư vị có ư niệm “Phật”.
Trong tâm tự tánh thanh tịnh, niệm ǵ cũng đều
chẳng có. Cớ sao quư vị giữ chặt ư niệm
“Phật” ấy? Chuyện này khó thể hiểu rơ, hữu
niệm bèn đọa lạc, vô niệm vẫn đọa
lạc, nhưng chúng ta tu Tịnh Độ lại
chẳng sợ. Tịnh Độ Tông đă giải
quyết vấn đề này. Tịnh Độ Tông
chẳng cho phép quư vị có niệm nào khác, chỉ chấp
nhận cho quư vị có ư niệm A Di Đà Phật, cách này
tuyệt diệu! A Di Đà Phật th́ ta vẫn là hữu
niệm? Chẳng sai! Ư niệm A Di Đà Phật này vẫn
đọa trong lưới, nhưng chẳng phải là
lưới ma, mà là đọa trong lưới A Di Đà
Phật, bị A Di Đà Phật chụp lấy đem
đi; đến Tây Phương Cực Lạc thế
giới sẽ diệt trừ ư niệm A Di Đà Phật
này, quư vị bèn thành Phật. Cách này
đúng là mầu nhiệm tột bậc, thật sự
chẳng thể nghĩ bàn, quá hay!
Hiện thời,
chúng ta nói là “hữu niệm
lẫn vô niệm chắc chắn đoạn chẳng
được”, quư vị nói “ta đoạn hết hữu
niệm” bèn biến thành vô niệm. Vô niệm chẳng có,
bèn biến thành hữu niệm, luôn rơi vào nhị biên,
chẳng có cách nào sanh tồn trong nhị biên, mà sanh tồn
trong ấy th́ cũng trật rồi! Quư vị thấy
cổ nhân nói: “Nhị biên
chẳng lập”, Trung Đạo cũng chẳng c̣n,
trung gian cũng không có, “Trung
Đạo chẳng tồn tại”. Đấy mới
là thật sự vô niệm. Vô niệm bèn hồi quy tự
tánh, trong tự tánh chẳng có niệm. Chân tâm ly niệm,
niệm chẳng c̣n nữa, chân tâm bèn hiện tiền,
đó cũng chính là như trong giáo pháp Đại Thừa
thường nói “minh tâm
kiến tánh, kiến tánh thành Phật”, làm sao quư vị có
thể hữu niệm? Chúng ta không có bản lănh ấy! Tu
pháp môn ấy là người thượng thượng
căn, chúng ta là kẻ nghiệp chướng sâu nặng,
chẳng có cách nào học tập! Chỉ có tu pháp môn Niệm
Phật là ổn thỏa, thích đáng, quyết định
có thể xuất ly trong một đời này. V́ thế,
pháp môn Niệm Phật được gọi là vô niệm
v́ chẳng có hết thảy niệm; [mà cũng] nói là
hữu niệm v́ có một niệm A Di Đà này. Quư vị
thấy đối với A Di Đà Phật bèn bảo
chấp tŕ danh hiệu, nhà Phật nói “phá chấp
trước”. Ở chỗ này, dạy quư vị chấp
trước, tức là quư vị phải chấp
trước danh hiệu, phải ǵn giữ, đừng
để bỏ mất, niệm đâu nghĩ tại
đó, trong tâm chỉ có một câu A Di Đà Phật, ngoài A
Di Đà Phật ra, cái ǵ cũng chẳng có. Chúng ta có
thể hành phương pháp này, mỗi người
đều có thể làm được. Xác thực là
Tịnh Tông đảm bảo hết thảy chúng sanh thoát
khỏi lục đạo và mười pháp giới trong
một đời, toàn bộ đều được
vượt thoát.
Sau đó, cụ Niệm Tổ
tổng kết bằng một câu rất hay: “Khả kiến khởi tâm
động niệm giai đọa ma vơng, duy hữu
tịnh niệm tương kế, vô niệm nhi niệm,
phương đắc xuất ly dă” (có thể thấy
khởi tâm động niệm đều đọa trong
lưới ma, chỉ có tịnh niệm tiếp nối, vô
niệm mà niệm mới được thoát ĺa). Một
câu A Di Đà Phật, ma giới không có, lục đạo
không có, mười pháp giới cũng không có, chỉ có
trong Tây Phương Cực Lạc thế giới là có. “Tịnh niệm tương
kế, vô niệm nhi niệm” (tịnh niệm tiếp nối,
không niệm mà niệm), chẳng có hết thảy vọng
niệm. Hết thảy các niệm đều là vọng
niệm, chỉ niệm A Di Đà Phật. Vô niệm là
không có những niệm khác, toàn bộ những niệm khác
đều buông xuống, nhưng niệm là hữu
niệm, chuyên niệm A Di Đà Phật. Kinh Vô Lượng
Thọ dạy chúng ta [bí quyết] gồm tám chữ, quư
vị đọc phẩm Tam Bối Văng Sanh (ba bậc văng
sanh) sẽ biết: Đức Phật dạy chúng ta “phát Bồ Đề tâm, nhất
hướng chuyên niệm”, tám chữ ấy. Nhất
định phải phát Bồ Đề tâm. Nếu không
phải là Bồ Đề tâm, dẫu một bề chuyên
niệm, vẫn chẳng thể văng sanh. Bồ Đề
tâm là tâm ǵ? Trong kinh luận đă giảng giải chẳng
dễ hiểu, hơn hai mươi năm trước,
tối thiểu là hai mươi lăm trước, khi
giảng kinh Di Đà tại Mỹ, tôi đă dùng năm
chữ (thanh tịnh, b́nh đẳng, giác) trong tựa
đề kinh Vô Lượng Thọ để giảng
Bồ Đề tâm, thêm vào trước đó hai chữ
“chân thành”, thêm vào sau đó hai chữ “từ bi”, giảng
như vậy dễ dàng, mọi người đều dễ
hiểu.
Bồ Đề tâm là ǵ? Tâm chân
thành là bản thể của Bồ Đề tâm. Chân thành
tâm, Chân là chẳng giả, Thành là chẳng dối, chẳng
phải là hư ngụy. Trong cuộc sống hằng ngày,
nếu sống bằng tâm chân thành, quư vị sẽ
sống rất tự tại. Người khác dùng tâm hư
ngụy để đối đăi ta, ta dùng tâm chân thành
đối đăi hắn, dụng tâm khác nhau. Tâm hư
ngụy đối xử kẻ khác, tạo thành nghiệp
bất thiện, quả báo trong tương lai là trong tam ác
đạo. Ta dùng tâm chân thành đối xử với người
khác, trong tương lai, ta văng sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới, A Di Đà Phật hoan nghênh ta, khác
hẳn! Tâm chân thành là tự thụ dụng. Tâm chân thành
cũng là đối xử với chính ḿnh như thế
nào. Đấy là năm chữ trong tựa đề kinh: “Thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”,
tôi thêm một chữ [Chánh] vào thành “Chánh Giác”, đó là đối với chính ḿnh. Tâm
chân thành đối với chính ḿnh là thanh tịnh, thanh
tịnh là chẳng nhiễm ô. Thứ ǵ là nhiễm ô?
Tự tư tự lợi là nhiễm ô; tiếng tăm,
lợi dưỡng là nhiễm ô, ngũ dục, lục
trần là nhiễm ô, tham, sân, si, mạn là nhiễm ô.
Nhiễm ô thảy đều phải bỏ đi, chớ
nên tiếp cận nó, tâm quư vị bèn thanh tịnh, tâm thanh
tịnh sanh trí huệ. Từ tâm thanh tịnh tiến cao
hơn thành tâm b́nh đẳng, b́nh đẳng cao hơn
thanh tịnh. Trong tâm b́nh đẳng, chẳng phân biệt,
chẳng có ngạo mạn, chẳng có ganh ghét. Ngạo
mạn và ganh ghét đều là tâm bất b́nh, chẳng c̣n [ngạo
mạn và ganh ghét] nữa, tâm đă b́nh đẳng. Tâm b́nh
đẳng là mấu chốt để đại
triệt đại ngộ. Đại triệt đại
ngộ, minh tâm kiến tánh là Chánh Giác. Một đệ
tử Phật môn, làm học tṛ đức Phật,
thường dùng điều này để đối
đăi với chính ḿnh, quư vị thấy bản thân quư
vị vui sướng lắm, pháp hỷ sung măn,
thường sanh tâm hoan hỷ. Dùng tâm ǵ để
đối đăi kẻ khác? Đối với chính ḿnh là “thanh tịnh, b́nh đẳng,
giác”, đối với kẻ khác là đại từ
đại bi. Nói cách khác, dùng tâm yêu thương chân thành, tâm
yêu thương thanh tịnh, b́nh đẳng, tâm yêu
thương giác chứ không mê để đăi
người, đó là “phát
Bồ Đề tâm”.
Nếu quư vị hỏi tôi
phải làm sao mới có thể thực hiện
được? Tôi bảo quư vị, hăy học tập
Đệ Tử Quy, học tập Cảm Ứng Thiên,
học tập Thập Thiện Nghiệp Đạo,
thực hiện ba thứ ấy một trăm phần
trăm, quư vị bèn làm được, tâm Bồ
Đề của quư vị thật sự phát ra. Sau đó,
một mực chuyên niệm, một phương
hướng, nhất tâm nhất ư chuyên niệm A Di Đà
Phật, chuyên cầu Tây Phương Tịnh Độ.
Trong cửa nhà Phật, có cầu ắt ứng. Trong
đời này, quư vị quyết định sanh về thế
giới Cực Lạc, quyết định thân cận A Di
Đà Phật, công đức của quư vị viên măn. Tham,
sân, si là Tam Độc; kể thêm ngạo mạn và hoài nghi,
sẽ là Ngũ Độc, phải buông xuống. Nếu
không buông xuống được, phiền phức của
quư vị sẽ to lớn. Trong có Ngũ Độc, là
mầm bệnh, năm thứ mầm bệnh nghiêm
trọng, bên ngoài có cảm nhiễm, lẽ đâu quư vị
chẳng bị bệnh? Bên trong trừ khử Tam
Độc hoặc Ngũ Độc, quư vị gặp
phải những bệnh tật bên ngoài bèn chẳng bị
cảm nhiễm, nói theo y học hiện thời là quư
vị có sức miễn dịch rất cao, rất
mạnh. Bệnh truyền nhiễm ǵ quư vị cũng
chẳng bị lây. Tánh của Bồ Đề tâm là
tốt lành mà!
Chúng ta lại xem đoạn
kế tiếp: “Giải chư
triền phược”, Triền (纏) là quấn quanh, Phược (縛) là ǵ?
Phược là trói chặt, giống như đem dây
thừng buộc quanh, trói chặt quư vị, quư vị
chẳng thể cựa quậy được! Đây là
h́nh dung từ. “Y Cảnh
Hưng sư ư” (theo ư của ngài Cảnh Hưng),
Cảnh Hưng là một vị pháp sư Nhật Bản,
Ngài nói “triền phược”
chính là “bát triền, tam
phược” như trong kinh Phật đă dạy. Chúng
ta coi xem chính ḿnh có tám thứ ấy hay không? Tám sợi dây
thừng trói chặt quư vị, quư vị chẳng cựa
quậy được! Ở đây, cụ Niệm Tổ
có ghi một chú thích nhỏ: “Dư
chư gia đa vị thập triền tứ phược”
(các nhà chú giải khác phần nhiều nói là mười
triền, bốn phược), cụ dùng thuyết “tám
triền, ba phược” của pháp sư Cảnh Hưng. “Mười triền, bốn
phược” có thể tra trong Phật Học Từ
Điển. Điều thứ nhất trong tám triền là
Vô Tàm. Chúng ta có Tàm (thẹn) hay không? Hai chữ Tàm và Quư là
Thiện Tâm Sở, Vô Tàm và Vô Quư là phiền năo. Tàm (慚) là ǵ?
Người Hoa thường nói người ấy có
lương tâm, làm chuyện sai quấy, lương tâm
cắn rứt, trong tâm cảm thấy rất khó chịu,
đó là có Tàm. Kẻ vô tàm th́ sao? Làm đủ mọi
chuyện xấu, chẳng cảm thấy đă làm
chuyện sai quấy. Người b́nh thường chúng ta
thường nói [kẻ ấy] vô lương tâm, kẻ
ấy thiếu lương tri nên gọi là Vô Tàm. Quư (愧) là ǵ? Quư là
sợ người khác chỉ trích. Chúng ta làm chuyện ác,
người khác phê b́nh, chúng ta cảm thấy rất kinh
sợ. V́ sợ đại chúng trong xă
hội phê b́nh, nên chẳng dám làm chuyện xấu, đó là
Quư Tâm Sở, tức là sợ bị dư luận chê trách.
Nếu chúng ta làm chuyện xấu, chẳng sợ
người khác dị nghị, chẳng màng kẻ khác phê b́nh,
đó là Vô Quư. Quư vị thấy kẻ làm chuyện ác,
chẳng bị lương tâm cắn rứt, mà
cũng chẳng sợ kẻ khác phê b́nh th́ kẻ ấy
chuyện xấu ǵ cũng dám làm. Đặt hai điều
này vào vị trí thứ nhất và thứ hai, có Tàm và Quư
sẽ chẳng dám làm chuyện xấu. Nếu hiểu nhân
quả, ta vừa dấy ác niệm, thiên địa,
quỷ thần sẽ phê phán ta, ngay cả ư niệm bất
thiện kẻ ấy cũng chẳng dám dấy lên. Quư
vị thấy hai Tâm Sở này đă sanh ra sức mạnh
lớn lắm.
Thứ ba là Tật Đố
(ganh ghét). Chúng ta phải lắng ḷng suy nghĩ, chúng ta có tâm
ganh ghét hay không? Thấy kẻ khác tốt đẹp, chúng
ta có cảm xúc ǵ? Nếu cảm thấy người
ấy vượt trội ta, tâm ta bực bội, ta
cũng muốn trội hơn kẻ ấy, hoặc là càng
làm quá lố hơn một chút là bôi lọ những ưu
điểm của kẻ ấy, phá hoại chuyện
tốt của kẻ đó, những điều này
đều phát xuất từ thói ganh ghét. Chướng
ngại chuyện tốt của người khác, chúng ta có
ư niệm ấy hay không? Dẫu phiền năo của chúng ta
nhẹ hơn một chút, nhưng trong tâm chẳng thoải
mái, chẳng làm chuyện phá hoại người khác, nhưng
vẫn là có tâm ganh ghét. Bồ Tát chẳng có, Bồ Tát
thấy điều tốt đẹp của người
khác, tâm sanh hoan hỷ. Tu ǵ? Tu tùy hỷ công đức,
người khác làm chuyện tốt, ta bèn tận tâm
tận lực giúp kẻ ấy, khiến cho chuyện tốt
của người ấy càng được làm tốt
đẹp hơn, đó là Bồ Tát. Tuyệt đối
chẳng chướng ngại kẻ khác, chướng
ngại kẻ khác là ác nghiệp, đều là đọa
tam đồ. Quư vị tùy hỷ công đức,
người ấy có công đức to nhiều,
người tùy hỷ đạt được công
đức to như người ấy. Chẳng có năng
lực tùy hỷ [bằng cách đóng góp công sức], bèn hoan
hỷ tán thán, đến khắp nơi tuyên dương
kẻ ấy th́ cũng là tùy hỷ, công đức cũng
giống hệt. Khi không có sức giúp đỡ quư vị,
tôi dùng ngôn ngữ, dùng văn tự để tuyên
dương công đức của quư vị, đó cũng
là tùy hỷ. Quư vị thấy đó, là phước hay là
họa đều thuộc trong một niệm. Chỉ có
kẻ mê hoặc mới ganh ghét, chướng ngại;
người thông minh có trí huệ chẳng làm chuyện ngu
xuẩn ấy. Gặp người khác làm chuyện
tốt, đó là cơ hội của chính ḿnh đă
đến, chúng ta có cơ hội để chính ḿnh tích
lũy công đức. Người ấy cầm
đầu, đứng đầu, chúng ta theo sau giúp
đỡ người ấy, thành tựu như nhau,
chẳng tăng, chẳng giảm. Trong mười
đại nguyện vương của Phổ Hiền
Bồ Tát có nguyện “tùy
hỷ công đức” là nguyện thứ năm,
tiếp ngay theo nguyện “sám
trừ nghiệp chướng” là “tùy hỷ công đức”, phải học hiểu
điều này.
Thứ tư là Xan (慳: keo kiệt). Xan
và Tham thường gộp chung, Tham là tham cầu, Xan là ǵ?
Chính ḿnh có, nhưng chẳng bỏ ra được
để giúp đỡ người khác, tâm lượng
rất nhỏ, chỉ cầu tự lợi, chẳng
biết lợi tha. Như vậy th́ có thể giữ ǵn
sự phú quư của chính ḿnh hay không? Thưa cùng chư
vị, chẳng thể! Quyết định chẳng
giữ được, mà c̣n khiến cho sự phú quư
của chính ḿnh bị hao tổn trên một mức
độ to lớn! Phú quư do đâu mà có? Phú quư do tâm lượng
rộng răi mà có! Cổ ngạn ngữ Trung Quốc đă nói
rất hay: “Lượng to,
phước lớn”. Lượng nhỏ nhen,
phước chẳng lớn, chẳng thể nào có
đại phước báo. Lượng to lớn, chịu
thí xả, thấy người khác gặp khó khăn, tự
ḿnh toàn tâm toàn lực giúp đỡ, đó là đại
phước báo. Giúp người khác nhưng chính ḿnh c̣n
giấu nghề, đó chính là xan tham, bị tổn
phước, chẳng phải là tu phước. Nhất
định phải giống như Bồ Tát toàn tâm toàn
lực thực hiện, phước báo lớn lao. Đức
Phật dạy tài phú do đâu mà có? Từ tài bố thí mà
có; thông minh và trí huệ do đâu mà có? Từ pháp bố thí
mà có, khỏe mạnh, sống lâu do đâu mà có? Do vô úy
bố thí mà có. Thật sự làm, dốc hết tánh
mạng thực hiện, càng làm càng thù thắng. Có
người nói tôi tuổi tác đă cao ngần ấy
vẫn c̣n giảng kinh! Làm chuyện giảng kinh này, ba
thứ bố thí trọn đủ. Thân thể, tinh
thần, thể lực là nội tài bố thí,
được của cải. Tu hành, giáo học là pháp
bố thí, tăng trưởng thông minh, trí huệ.
Người nghe kinh hiểu rơ, thông suốt, y giáo phụng
hành, bèn ĺa khổ được vui, đó là ta đă vô úy
bố thí, quả báo là khỏe mạnh, sống lâu.
Chẳng giảng kinh th́ thọ mạng bèn hết,
chẳng khởi tác dụng. Càng giảng càng có tinh
thần, càng giảng tuổi thọ càng dài, đạo lư
là như vậy đó. Quư vị đồng ư xả, thọ
mạng bèn dài. Chẳng chịu xả, thọ mạng
ngắn ngủi, chuyện là như vậy đó. Hiểu
rơ ràng, hiểu minh bạch rồi th́ tu học và giảng
kinh sung sướng hơn bất cứ ǵ khác. Khỏe mạnh,
trường thọ, vĩnh viễn chẳng bị già suy, luôn vừa phải. Thật sự suy
lăo là chẳng thể cử động. Nếu quư vị
nghĩ “hăy keo kiệt một chút, ta đă lớn tuổi,
hăy giảng ít đi một chút để thân thể
nghỉ ngơi nhiều hơn”, càng nghỉ ngơi càng già
khọm, càng nghỉ ngơi càng đổ bệnh ra,
đạo lư là như vậy đó! Ngày nào chẳng
giảng nữa, chẳng giảng bèn văng sanh, đến
thế giới Cực Lạc, cũng chẳng thể
chịu khổ sở v́ tuổi già ở đây một ngày
nào. Già rất khổ, chẳng phải chịu cái
tội ấy! Hễ không giảng bèn đi ngay sang thế
giới Cực Lạc. Chư Phật, Bồ Tát ứng hóa
trong thế gian này, nêu gương cho chúng ta.
Thứ năm là Ác Tác, phạm
vi ở đây vô cùng rộng răi, tất cả hết
thảy hành vi bất thiện đều được
bao gồm trong điều này. Trong cuộc sống, công
việc, đăi người, tiếp vật, hễ trái
phạm những ǵ đă nói trong Đệ Tử Quy, trái
nghịch những ǵ Cảm Ứng Thiên và Thập Thiện
Nghiệp Đạo đă nói th́ đều gọi là Ác Tác,
do trái nghịch tánh đức.
Thứ sáu là Thụy Miên. Chẳng
thể nào không ngủ, nhưng chớ nên tham ngủ. Thông
thường ngủ nghỉ, ngủ rất ngon th́
chừng sáu giờ là đủ rồi, khi tỉnh giấc
phải làm việc. Công việc của người học
Phật là khi tỉnh giấc bèn rửa ráy, thay quần áo sạch
sẽ, tụng kinh, niệm Phật, lạy Phật,
hoặc là đọc kinh. Từ tuổi trung niên trở
lên, lạy Phật rất trọng yếu. Lạy Phật
là vận động, làm chuyện vận động này
chẳng lăng phí thời gian, tương ứng với niệm
Phật. Kinh hành cũng là một loại vận
động tốt, thích hợp cho người lớn
tuổi. Kinh hành, niệm Phật, “ức Phật, niệm Phật, hiện tiền
đương lai, tất định kiến Phật”
(nhớ Phật, niệm Phật, hiện tại,
tương lai, nhất định thấy Phật).
Chớ nên ngủ quá nhiều. Ngủ quá nhiều là lăng phí
thời gian quư báu của chính ḿnh, nhất định
phải phấn chấn tinh thần.
Thứ bảy là Điệu
Cử (Trạo Cử). Nay chúng ta gọi Điệu Cử
(掉舉) là tánh khí bộp chộp, tâm chẳng
định được, vọng niệm quá nhiều.
Đặc biệt là muốn tĩnh lặng, ta tĩnh
tọa mấy phút, vừa tĩnh tọa, vọng
tưởng quá nhiều, trạng huống ấy
được gọi là Điệu Cử, trở
ngại rất lớn cho sự tu học. Tâm chẳng đặt
tại đó, học ǵ cũng đều khó khăn.
Điều thứ tám, trái
ngược với Điệu Cử. Điệu Cử
là tâm t́nh bộp chộp, xáo động. Hôn Trầm là
ngủ gà ngủ gật, tinh thần uể oải. Quư
vị bảo người ấy niệm Phật, niệm
được mấy phút đă ngủ mất. Trong
Phật Thất chúng ta thường thấy, người
hôn trầm có khi nhiễu Phật, chân vẫn bước
nhiễu Phật mà đă ngủ gục, ngáy o o luôn,
chẳng phải là niệm Phật mà là ngáy kḥ kḥ!
Tám thứ này là phiền năo,
quấn trói quư vị, khiến cho công phu của quư vị
chẳng đắc lực, khiến quư vị tu học
chẳng thể thành tựu. Đó là Bát Triền. Tam
Phược là ǵ? Chính là Tam Độc phiền năo, tham, sân,
si. Trong có tham, sân, si, ngoài có tám hiện tượng ấy,
người như vậy làm ác rất dễ dàng, hành
thiện hết sức khó khăn. Chúng ta biết kẻ có
Bát Triền Tam Phược trong tương lai sẽ
đến nơi đâu? Chắc chắn là tam đồ,
đời sau chẳng có phần trong cơi trời
người, đừng mong về thế giới Cực
Lạc. V́ thế, các đồng học niệm Phật
chúng ta, có ḷng tin chân thật, nguyện thiết tha, phải
thường xét coi chính ḿnh có tám hiện tượng
ấy hay không? Nếu có, phải thống thiết sửa
lỗi trước, phải nghiêm túc nỗ lực tinh
tấn, đặc biệt là phải hóa giải Tam
Độc và Ngũ Độc như chúng tôi đă nói.
“Tịnh
Ảnh Sớ viết: Diệc khả nhất thiết
chư phiền năo kết, thông danh Triền Phược,
Bồ Tát giáo nhân đoạn ly, danh Giải” (Tịnh
Ảnh Sớ giảng: “Cũng có thể nói là hết
thảy các phiền năo kết đều gọi là
Triền Phược, Bồ Tát dạy người ta
đoạn ĺa chúng, đó là Giải”), tức là hóa giải
triền phược. Tịnh Ảnh Sớ là chú giải
kinh Vô Lượng Thọ, trong ấy cũng nói rất hay,
phạm vi to lớn. “Giải
chư triền phược”, phạm vi của triền
phược hết sức rộng lớn. “Nhất thiết chư phiền năo kết”, Kết (結) cũng là tên gọi khác của
phiền năo. Trong kinh Đại Thừa, đức
Phật dạy có tám vạn bốn ngàn phiền năo, quy
nạp thành một trăm lẻ tám phiền năo. Kinh
Phật thường nói điều này, phiền năo gồm
một trăm lẻ tám thứ. Nói thật ra, trong mỗi
thứ đều là vô lượng vô biên, không chỉ là tám
vạn bốn ngàn. Trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện có
nói: “Phiền năo vô tận
thệ nguyện đoạn”. Đức Phật
dạy đại chúng, một trăm lẻ tám vẫn là
quá nhiều, khi giáo học vẫn chẳng thuận
tiện, nên lại quy nạp một trăm lẻ tám thành
hai mươi sáu cho dễ nói. Thông thường, đối
với những người sơ học đều nói là
hai mươi sáu. Hai mươi sáu phiền năo gồm sáu
căn bản phiền năo và hai mươi tùy phiền năo.
Trong tùy phiền năo lại có Trung Tùy, Đại Tùy, và
Tiểu Tùy. Hai điều Vô Tàm và Vô Quư là Trung Tùy,
Đại Tùy tám điều, Tiểu Tùy mười
điều, dễ giảng giải! Sáu căn bản
phiền năo là năm điều tham, sân, si, mạn, nghi,
thêm vào sau đó là ác kiến. Ác kiến là năm thứ
Kiến Hoặc, quy nạp chúng lại bèn gọi là ác
kiến. Nói cách khác, sáu căn bản phiền năo
thường được gọi là Kiến Tư
phiền năo. Kiến phiền năo là ác kiến, Tư
phiền năo là tham, sân, si, mạn, nghi. Tư (思) là tư
tưởng, quư vị nghĩ sai. Kiến là quư vị
thấy sai, cách nh́n và cách nghĩ của quư vị
đối với hết thảy các pháp trong vũ trụ
đă sai, cho nên rắc rối mới nẩy sanh.
Đức Phật đă nêu ra
những sai lầm ấy, khiến cho chúng ta giác ngộ,
hiểu rơ, bèn buông những sai lầm ấy xuống, chánh
tri chánh kiến hiện tiền, chánh tri chánh kiến là “tri
kiến của Phật”. Chúng ta là phàm phu, chính ḿnh nhất
định phải tự biết rơ ḿnh th́ mới có
thể học thứ này, thứ nọ. Phải khiêm
hư, chớ nên có mảy may cuồng vọng, phải
thật thà, phải nghe lời. Trong hoàn cảnh hiện tiền,
chúng ta mong thành tựu trong một đời, đầu
tiên là phải vun bồi vững vàng ba căn cội,
nhất định phải biết [điều này]. Trong
quá khứ, người thuộc một thế kỷ
trước, bất luận là tại gia học Phật
hay xuất gia học Phật, mỗi cá nhân đều vun
bồi tốt đẹp ba căn cội ấy, nên họ
có thành tựu. Người tu hành hiện thời v́ sao
chẳng thành tựu? Chư vị chỉ cần lắng
ḷng tỉnh táo quan sát, trong tâm sẽ hiểu rơ. Chúng ta nói
xem: Người tu Tịnh Độ tại gia hay xuất
gia, khi lâm chung, chúng ta tiễn họ đi văng sanh, có
mấy người đầu óc tỉnh táo, tinh thần rất
sáng suốt? Lúc ra đi, bảo mọi người: “Tôi
thấy Phật đến tiếp dẫn tôi, tôi theo
Phật ra đi”, đó là thật sự văng sanh, chẳng
giả chút nào! Nếu khi mất mà hôn mê, như vậy là
chẳng nhất định [văng sanh]. Nhưng người
đưa đi văng sanh trợ niệm đông đảo,
có thể giúp người ấy chẳng đọa ác
đạo, chúng ta có thể tin điều này, có thể
khẳng định, người ấy có thật sự
sanh vào thế giới Cực Lạc hay không? Chẳng
chắc ăn! Nếu mắc phải chứng lú lẫn
của người già (Alzheimer's disease) th́ chẳng có cách nào, trợ niệm vô
hiệu! Mắc chứng si ngốc của người già,
mơ hồ, điên đảo ra đi, nghiệp
chướng sâu nặng, lúc lâm chung nghiệp chướng
hiện tiền, chẳng thể văng sanh. Người ra
đi như vậy sẽ vẫn luân hồi trong lục
đạo y như cũ, quư vị nói xem: Chuyện này có
phiền phức hay không? Chúng ta là người thật tu,
thật hành, phải chú trọng đề pḥng chuyện
này!
Chúng ta làm thế nào để
tỉnh táo, sáng suốt trong lúc lâm chung? Dùng phương pháp
ǵ? Đoạn ác, tu thiện, tích lũy công đức. Phải thực hiện năm chữ “nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín” do cổ nhân Trung Quốc đă nói.
Chẳng làm được năm chữ ấy, lúc quư
vị ra đi sẽ bị chướng ngại.
Người thiếu nhân ái, thiếu từ bi, chẳng có ḷng
nhân ái sẽ mắc bệnh gan, bệnh ở gan. Nếu là
kẻ bất nghĩa, thiếu đạo nghĩa, sẽ
bị bệnh phổi. Kẻ thiếu lễ bị
bệnh tim. Kẻ thiếu trí bị bệnh thận.
Kẻ thiếu chữ tín, bệnh tại tỳ vị. Các
chứng bệnh đều có nguyên nhân đối ứng.
Có thể hành trọn nhân, nghĩa, lễ, trí, tín [sẽ
chẳng có bệnh]. Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín và Ngũ Giới trong Phật pháp hoàn toàn
giống nhau. Nhân là chẳng sát sanh, Nghĩa là chẳng
trộm cắp, Lễ là chẳng tà hạnh, Trí là chẳng
uống rượu, Tín là chẳng nói dối, hoàn toàn
tương ứng với năm giới, quư vị
đều có thể làm được, quyết
định chẳng vi phạm, trong đời này, quư
vị chẳng mắc bệnh. “Siêng
tu Giới, Định, Huệ, dứt diệt tham, sân, si”,
bản thân chúng ta mới có thể bảo đảm chính
ḿnh khi lâm chung chẳng hồ đồ, như vậy th́
chắc chắn sẽ văng sanh. Văng sanh là trong một
niệm cuối cùng. Một niệm cuối cùng là A Di
Đà Phật, chẳng phải là điều ǵ khác. Do
vậy, lúc b́nh thời phải buông xuống, khi lâm chung, quư
vị mới chẳng có tạp niệm, mới chẳng
nghĩ cái này, tưởng cái kia, đặc biệt là danh,
sắc, tài, ăn uống, ngủ nghỉ cũng
đều bỏ, khi lâm chung sạch làu, chẳng có ô
nhiễm. Đă biết hết thảy phiền năo th́
phải xa ĺa, phải tận hết sức xa ĺa, càng xa
càng hay, v́ sao? Đó là triền phược, trói buộc
chúng ta ở nơi đây, khiến cho chúng ta chẳng ĺa
khỏi lục đạo luân hồi, quư vị nói có
phiền phức lắm hay không? Bồ Tát dạy chúng ta
đoạn sạch, dạy chúng ta rời khỏi, đó là
Giải, [tức là] cởi gỡ những trói buộc!
“Thượng
nhị cú, biểu hội trung chư Bồ Tát dĩ thông
chư pháp tánh, đạt chúng sanh tướng, cụ
Căn Bản Trí cập Sai Biệt Trí” (hai câu trên
biểu thị các vị Bồ Tát trong hội do thông
suốt tánh của các pháp, thấu đạt tướng
chúng sanh, trọn đủ Căn Bản Trí và Sai Biệt
Trí). “Thông chư pháp tánh” là
Căn Bản Trí, “đạt
chúng sanh tướng” là Sai Biệt Trí, tức là không ǵ
chẳng biết. V́ thế, Ngài “năng
vị chúng sanh phá ma kiến vơng, linh ly tà nghiệp” (có
thể v́ chúng sanh phá lưới ma, khiến cho họ ĺa tà
nghiệp), “nghiệp” là
sự nghiệp, là tạo tác. Sự nghiệp bất
thiện quyết định chẳng làm. Ở trong
thế giới này, khởi tâm động niệm, ngôn
ngữ, tạo tác, hết thảy sự nghiệp
đều tạo lợi ích cho người khác,
đều có chỗ tốt đẹp, quư vị thực
hiện bèn chẳng thiệt tḥi, chớ nên không biết
[điều này]. Con người sống trên thế gian
rất ngắn ngủi, một trăm năm, đối
với người trẻ tuổi mà nói th́ dường
như rất dài, nhưng với lứa tuổi tôi, sẽ
thấy một trăm năm như một cái khảy ngón
tay, trôi qua rất nhanh, có ư nghĩa ǵ đâu? Đến
tuổi già mới thật sự hiểu mạng
người khổ sở, ngắn ngủi. Chẳng
sợ khổ là v́ nguyên nhân nào? Thời gian khổ sở
ngắn ngủi, chẳng dài, ta phải cắn chặt răng
vượt qua thời gian ít ỏi này, quyết
định chẳng tạo ác nghiệp, đáng giá lắm!
Đời sau sanh về Tây Phương Cực Lạc
thế giới, thời gian lâu dài. Sanh sang Tây Phương
Cực Lạc thế giới, dẫu là hạ hạ
phẩm văng sanh trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư, thậm
chí văng sanh trong biên địa của Tây Phương
Cực Lạc thế giới, vẫn chúc mừng quư
vị, quư vị được vô lượng thọ,
đă ĺa hết thảy khổ. Tây Phương Cực
Lạc thế giới chẳng có khổ, nên gọi là
Cực Lạc. Quư vị thành Phật ở bên ấy,
rất nhanh chóng chứng đắc Phật quả rốt
ráo. Sau khi thành Phật, quư vị giống như các vị
đại Bồ Tát: “Có
thể v́ các hữu t́nh, tháo gỡ các trói buộc, khiến
họ ĺa phiền năo”. Giúp đỡ chúng sanh hóa giải
triền phược. Đó chính là giáo học, quư vị
giảng thấu triệt, minh bạch tánh - tướng, lư
- sự, nhân - quả của vạn pháp trong vũ trụ.
Chúng sanh sau khi nghe xong, giác ngộ, hễ giác ngộ bèn quay
đầu, xa ĺa triền phược, và cũng vĩnh
viễn ĺa phiền năo. Ĺa khỏi phiền năo, trí huệ
hiện tiền, phiền năo nhẹ nhàng, trí huệ tăng
trưởng, trí huệ hướng dẫn người
ấy, kẻ ấy chẳng làm ác, chẳng đi vào ngơ rẽ,
đảm bảo chính ḿnh dũng mănh, tinh tấn trên con
đường thành Phật, văng sanh bất thoái thành
Phật ngay trong một đời. Hiện tại thời
gian đă hết rồi, buổi học này chúng ta học
tập tới đây!
Tịnh
Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
Phần 58 hết
[1] Nguyên văn “điêu
trùng tiểu kỹ” (雕蟲小技), “điêu”
là điêu khắc. Đây là một thành ngữ châm biếm
những tài nghệ quá nhỏ nhặt kém cỏi, chẳng
đáng nhắc tới. Câu này
có nghĩa là tài nghệ vụn vặt giống như
một đứa nhỏ tập tành điêu khắc,
hoặc viết lách giống như chữ Điểu
Trùng. Điểu Trùng Thư (鳥蟲書) là một loại văn tự cổ, sơ
khai. Do nét chữ nguệch ngoạc như dấu chân chim
hoặc ngoằn ngoèo như giun ḅ, nên gọi là Điểu
Trùng Thư.
[2] Theo ngu ư, cách phiên âm tên bà Eve thành Hạ
Oa là do dựa theo cổ ngữ Do Thái. Trong cổ ngữ Do
Thái, tên bà này thường được ghi là Ḥawwāh,
tiếng Do Thái hiện thời ghi là Khavah. Người Hy
Lạp ghi tên bà này thành Heúā, và bị biến âm lần
nữa thành Eva hoặc Eve sau này. Theo suy đoán của giới
sử học, cái tên Ḥawwāh phát xuất từ tên
nữ thần Kheba của dân Hurrian (cổ dân cư
sống tại vùng Cận Đông và Lưỡng Hà), và Kheba
lại là biến thể của Kubau, tức tên một
nữ vương của vương triều Kish. Kish là
thành phố Tell al-Uhaymir của vương triều Sumer tại
Lưỡng Hà (Mesopotamia) sau này.